Friday, November 2, 2012

JESUS DƯỚI CÁI NHÌN CỦA DO THÁI GIÁO VÀ HỒI GIÁO


JESUS DƯỚI CÁI NHÌN CỦA DO THÁI GIÁO VÀ HỒI GIÁO
Theo con số thống kê của "Time Almanach 2001" thì Ki Tô Giáo, tức Cơ Đốc Giáo (Christianity) là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn nhất thế giới, chiếm 1/3 dân số toàn thể nhân loại.

Dân số thế giới hiện nay là 5 tỷ 929 triệu.

Số lượng tín đồ Ki Tô Giáo (Christians) là: 1 tỷ 943 triệu.

Mặc dầu gần hai tỷ người đó đều tự nhận là tín đồ Ki Tô (Christians) nhưng họ thuộc về nhiều giáo hội khác nhau, với những tín điều và nghi lễ khác nhau. Nói chung, những người theo Ki Tô Giáo có thể được chia thành 5 nhóm tôn giáo sau đây:

1. Công Giáo La Mã: 1 tỷ 026 triệu (trực thuộc Vatican)

2. Các giáo phái Tin Lành: 316 triệu (trên 200 giáo phái chống đối Vatican)

3. Chính Thống Giáo: 213 triệu (phần lớn ở Đông Âu, Nga và Bắc Phi)

4. Anh Giáo: 63 triệu (nghi lễ giống Công Giáo nhưng không thuộc Vatican)

5. Các nhóm Ki Tô Giáo độc lập: 373 triệu (Unaffiliated Christians)

Qua gần hai ngàn năm lịch sử, Ki Tô Giáo đã bị phân hóa trầm trọng và những cuộc thánh chiến tương tàn giữa những người anh em có cùng niềm tin vào Chúa Ki Tô đã làm tiêu hao nhiều chục triệu sinh linh. Nhưng có một sự kiện nổi bật trong lịch sử là: Dù cho những người Ki Tô Giáo chống đối nhau, thậm chí giết nhau như cuộc xung đột Công Giáo Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan hoặc xung đột giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo ở Nam Tư, nhưng họ vẫn có chung một niềm tin: Jesus là Chúa Cứu Thế (Messiah/Christ).

Qua lăng kính tâm linh của các tín đồ Ki Tô Giáo, Jesus là đấng Messiah với những thuộc tính sau đây:

1. Ngài là Thiên Chúa hóa thân thành người (God in human form).

2. Ngài chết để chuộc tội tổ tông của loài người

3. Ngài sống lại lên trời và sẽ xuống thế gian lần thứ hai vào ngày tận thế để xét xử mọi người sống và chết (mọi người chết sẽ sống lại để được xét xử)

Như chúng ta đã biết, Do Thái và Hồi Giáo cũng là những đạo thờ Thiên Chúa nhưng cả hai đều phủ nhận Jesus là Messiah với những thuộc tính nói trên.

Hai tôn giáo Do Thái và Hồi đã đưa ra những luận cứ nào để bác bỏ tư cách Messiah (Kitô) của Jesus? Đó là nội dung chính yếu của bài viết này.



I. QUAN ĐIỂM CỦA DO THÁI GIÁO VỀ JESUS



Jesus là một người có thật, bằng xương bằng thịt, đã được sinh ra ở Do Thái cách đây gần 2000 năm.

Nhưng ý niệm về Messiah (Chúa Cứu Thế/ Chúa Ki Tô) là một sản phẩm đặc biệt trong tư duy của dân tộc Do Thái. Để tìm một định nghĩa xác thực nhất về Messiah, thiết tưởng không có gì đáng tin cậy hơn là Tự Điển Bách Khoa về Đạo Do Thái (The Shengold Jewish Encyclopedia).

Niềm tin vào Đấng Messiah (Messianism) được định nghĩa như sau: "Niềm tin vào đấng Messiah là niềm tin rằng: dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại được dẫn đến một thời đại hoàng kim, trong đó nền công lý toàn hảo và nền hòa bình thế giới được thực hiện bởi đấng Messiah. Ngài là vị vua lý tưởng và là một người toàn hảo. Danh từ "Messiah" có nghĩa là "Người được xức dầu", đây là một phương cách cổ xưa để tôn vinh một người được trao trọng trách đặc biệt. Danh từ "Messiah Adonai" có nghĩa là "Người được Thiên Chúa xức dầu". Đây là một danh hiệu do Cựu Ước dùng để gọi các vị vua của Israel. Các vị tiên tri trong kinh Thánh mô tả Messiah là một người được Thiên Chúa chỉ định, một vị lãnh đạo lý tưởng để đưa toàn thế giới đến nền công chính và hòa bình. Qua nhiều thế kỷ lưu lạc, dân tộc Do Thái vẫn tiếp tục ước mơ về sự xuất hiện của đấng Messiah".

(Messianism: The belief that the Jewish people and all humanity would be led to a Golden Age of perfect justice and universal peace by a Messiah, an ideal king and a perfect man. The Hebrew Messiah means "one anointed man with oil", the ancient way of dedicating a man to a special service. Messiah Donai - The Anointed of God - was a title of honor given in the Bible to the Kings of Israel. The prophets described the Messiah as a divinely appointed man, an ideal ruler who would lead the world in righteousness and in peace.

During the long centuries of exile, the Jewish people continued to dream of the Messiah).

Qua định nghĩa "Messiah" nói trên của người Do Thái, ta thấy sứ mạng của "Chúa Cứu Thế" chính danh phải là người thực hiện được nền hòa bình thực sự và nền công chính toàn hảo trên khắp thế giới. Xét theo tiêu chuẩn này, mọi người đều sẽ nhận rõ rằng: Jesus chỉ là một kẻ vô dụng vì y chưa từng bao giờ góp được một chút công lao nào cho nền công chính và hòa bình của nhân loại.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có nhiều điều tiên tri về Messiah. Nhưng Jesus chưa từng bao giờ thực hiện được một điều nào để chứng tỏ ông ta là Messiah cả. Thí dụ:

- Tiên tri Isaiah (thế kỷ 8 TCN) định nghĩa Messiah là đấng "giải thoát mọi người bị áp bức" (To let the oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Thử hỏi Jesus đã giải thoát được một người nào bị áp bức trên thế gian này?

- Isaiah cũng nói: Đấng Messiah sẽ gom góp toàn dân Do Thái trở về đất Israel (Gather all Jews back to the land of Israel - Isaiah 43: 5-6). Lịch sử Do Thái đã chứng minh ngược lại: Jesus chết khoảng năm 30. Đến năm 70 thì Israel bị quân La Mã đánh chiếm và tiêu diệt người Do Thái vô số kể. Đến nỗi người Do Thái sợ bi diệt chủng nên đã bỏ xứ lánh nạn khắp nơi trên thế giới. Gần 19 thế kỷ sau (1949) thì Liên Hiệp Quốc (không phải Jesus) đã gom dân Do Thái về Israel!

- Tiên tri Zechariah nói: Đấng Messiah là vua cai trị toàn thế giới (King over all the world - Zech. 14: 19) Điều này thì trong 2000 năm qua và cho đến muôn kiếp về sau chẳng bao giờ Jesus có thể thực hiện được!

- Tiên tri Isaiah xác định: Messiah phải là người thuộc dòng vua David theo phụ hệ (Messiah must be decended on his father's side from King David.

- Isaiah 11: 1) Jesus có mẹ đồng trinh nên không có cha, vậy y làm sao thuộc dòng David theo phụ hệ được? Do đó, Jesus không có tư cách Messiah.

- Người Do Thái hoàn toàn bác bỏ tính cách Thiên Chúa của Jesus vì Cựu Ước dạy "Thiên Chúa chỉ có Một" (The Lord is One - Dent 6: 4) và "Thiên Chúa là vĩnh cửu, vượt thời gian. Ngài là vô cùng, vượt không gian. Ngài không thể được sinh ra và không thể chết" (God is eternal above time. He is infinite above space. He cannot be born and cannot die - Numbers 23: 19). Jesus đã được sinh ra bởi bà Maria và đã chết dù chỉ chết 3 ngày 3 đêm) nên Jesus không thể là Thiên Chúa vì Thiên Chúa không chết dù chỉ trong giây phút.

Người Do Thái vẫn chờ đợi sự xuất hiện của đấng Messiah. Điều đó có nghĩa là đấng Messiah chưa từng bao giờ xuất hiện trên thế gian này. Đối với họ, Jesus không hề thực hiện được một điều nào Cựu Ước đã tiên tri về Messiah nên Jesus không bao giờ được dân tộc Do Thái công nhận. Người Do Thái cũng phủ nhận sự tái lâm của Jesus vì thần học của đạo Do Thái khẳng định Messiah chỉ đến một lần và không bao giờ trở lại. (No second coming of Messiah).

Dân tộc Do Thái rất kiên trì trong niềm tin tôn giáo vì họ tin tưởng rằng đạo Do Thái là đạo duy nhất do Thiên Chúa mặc khải cho cả quốc gia (a national revelation). Truyền thuyết về Messiah là sản phẩm tâm linh của cả dân tộc Do Thái. Họ không ngờ truyền thuyết này đã trở thành chiếc boomerang quay ngược lại tiêu diệt dân tộc mình. Trong gần hai ngàn năm qua, họ luôn luôn phủ nhận tư cách Messiah của Jesus. Hậu quả thảm khốc là nhiều triệu người Do Thái đã bị giết nhưng vẫn chưa đủ đền mạng của một người Do Thái được người ta tôn vinh là Đấng Messiah!



II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒI GIÁO VỀ JESUS



Khi nghiên cứu về Hồi Giáo, chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận thấy người Hồi Giáo - nhất là Hồi Giáo Ả Rập - rất quan tâm và viết khá nhiều về Jesus.

Tiến sĩ Tarif Khalidi, giáo sư môn ngôn ngữ học Ả Rập tại Đại Học Cambridge, đã thu thập được 303 câu chuyện (stories) qua hàng trăm cuốn sách bằng tiếng Ả Rập viết về Jesus.

Ông đúc kết lại thành sách "The Muslim Jesus". Nguyên bản bằng tiếng Ả Rập. Bản dịch Anh ngữ 246 trang do Havard University Press xuất bản 2001. Tựa đề của cuốn sách ngụ ý Jesus không phải là người Do Thái, cũng không phải là giáo chủ đạo Ki Tô mà là một tín đồ Hồi Giáo. Cũng tương tự như Jesus, Abraham và Moises đều được người Hồi Giáo coi là những người đồng đạo của họ. Muhammad khẳng định: "Abraham không phải là Do Thái hay Ki Tô. Abraham, Moises và Jesus đều là những tín đồ Hồi Giáo. (Abraham was not a Jew nor yet a Christian. Abraham, Moises and Jesus are Muslims - Koran 3: 67).

Người Hồi Giáo cho rằng: các tín đồ Ki Tô đã hiểu sai về Jesus và chỉ có người Hồi Giáo mới có cái nhìn đích thực về một "Jesus Thật" (The Real Jesus).

Tất cả những quan niệm của người Hồi Giáo về Jesus đều được Muhammad truyền dạy trong kinh Koran qua những câu thơ rải rác trong 15 chương sách. Chúng ta cũng biết rằng kinh Koran là Kinh Thánh của Hồi Giáo (The Holy Bible of Islam). Đối với các tín đồ Hồi Giáo, Jesus thật là Jesus được mô tả trong kinh Koran (Quranic Jesus). Đó chính là Jesus trong đức tin Hồi Giáo:

- Kinh Koran ca ngợi Jesus là tiên tri của Thiên Chúa (a prophet of God) là sứ giả của Chúa (a messenger of God) là tiếng nói và tinh thần của Thiên Chúa Allah (the Word and the Spirit of Allah) (Koran 3: 45).

- Kinh Koran ca ngợi Jesus có tài tranh biện vì được Thiên Chúa ban sức mạnh tinh thần thánh thiện (God gave Jesus clear arguments and strenghten him with the holy spirit - Koran 2: 87). Thiên Chúa dạy dỗ Jesus sự khôn ngoan và sự hiểu biết về kinh Thánh Cựu Ước, Tân Ước (Allah taught him the wisdom, and the Tawrah, the Injil - Koran 3: 48) Jesus có khả năng chữa lành những kẻ mù hoặc những kẻ cùi hủi và khiến cho kẻ chết sống lại với sự cho phép của Thiên Chúa Allah (Jesus heals the blind and the leprous and bring the death to life with Allah's permission - Koran 3: 49)

- Hồi Giáo công nhận Jesus được sinh ra bởi bà Maria đồng trinh (And She who guarded her chastity - Koran 21: 91). Koran nhắc lại lời của bà I-sa-ve (mẹ của Gioan) chúc mừng bà Maria: "Thiên Chúa Allah đã chọn bà trên hết mọi người nữ ở thế gian này" (Allah has chosen you above the women of the world! - Koran 3: 42).

- Hồi Giáo tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian vào ngày phán xét cuối cùng nhưng chỉ với tư cách nhân chứng mà thôi. Vị thẩm phán tối cao xét xử mọi người là Thiên Chúa Allah. (On the day of Resurrection Jesus shall be a witness - Koran 4: 159).

- Hồi Giáo không nói Jesus đã từ kẻ chết sống lại, nhưng tin rằng Thiên Chúa Allah đã đưa Jesus về trời. (Allah took him up to Himself - Koran 4: 158)

Mặc dầu Hồi giáo tôn vinh Jesus như trên nhưng họ hoàn toàn phủ nhận tư cách Thiên Chúa hoặc Con Thiên Chúa của Jesus. Koran khẳng định: "Thật là nhục mạ Thiên Chúa đối với những kẻ nói Jesus, con của Maria, là Thiên Chúa. Jesus không là gì khác hơn là tôi tớ của Thiên Chúa mà thôi" (They do blaspheme who say God is Jesus, son of Maria. He was no more than a servant of God - Koran 5: 72-75).

Jesus không phải là một sinh vật linh thiêng mà chỉ là một người thường như chúng ta. Trước mặt Thiên Chúa Jesus cũng giống như Adam, tất cả đều được Thiên Chúa dựng lên bằng tro bụi. (Surely, the likeness of Jesus is with Allah as the likeness of Adam. He created him from dust - Koran 3: 59). Sở dĩ Jesus được coi là một người đặc biệt vì ông ta được Thiên Chúa Allah ban cho đặc ân và ngài biến ông ta thành một gương sáng cho con cháu của dân tộc Do Thái. (Jesus, son of Mary, was naught but a servant on whom God bestowed favor and made him an example for the children of Israel - Koran 43: 59).

- Hồi Giáo kịch liệt chống lại Thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi. Kinh Koran luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều quan trọng nhất của đạo Hồi là: Thiên Chúa chỉ có Một. Ngài không sinh con và không do ai sinh ra. Không có một người nào giống Thiên Chúa cả. (Say not three Deists, Allah is One. Koran 4: 117, Say, He, Allah is One. He begets not, nor is He begotten and none is like Him. Koran 112: 1-4)

Thiên Chúa không bao giờ tha thứ cho bất cứ ai đồng hóa với Ngài - Bất cứ ai gán ghép một cái gì đó vào Thiên Chúa đều phạm tội trọng. (Surely, Allah does not forgive that anything should be associated with him - Whoever associated anything with Allah he devises indeed a great sin - Koran 4: 48)

- Hồi Giáo phủ nhận việc Jesus bị đóng đinh trên thập giá (They - the Jews - killed him not nor cruxified him - Koran 3: 59) đồng thời phủ nhận "tội tổ tông" của Adam và Eva, mặc dầu Hồi Giáo cũng tin hai vị này là tổ tiên của loài người. Nói cách khác, Hồi Giáo hoàn toàn phủ nhận lập luận của đạo Ki Tô cho rằng đã chịu chết trên thập giá chuộc tội tổ tông để cứu loài người.

Đọc kinh Koran, mọi người sẽ nhận thấy thái độ rất rõ rệt của Hồi Giáo đối với Ki Tô Giáo:

Một mặt, người Hồi Giáo rất tôn kính Jesus. Mặt khác người Hồi Giáo tỏ thái độ thù nghịch đối với các tín đồ Ki Tô Giáo vì người Ki Tô vi phạm những điều cấm kỵ hết sức nghiêm ngặt của đạo Hồi là tuyệt đối cấm thờ bất cứ một ai ngoài Thiên Chúa Allah và cấm thờ ảnh tượng. Muhammad qui trách nhiệm cho những người Do Thái lập đạo Ki Tô đã ngụy tạo Lời Chúa và viết thêm những điều bậy bạ vào Thánh Kinh làm cho Ki Tô Giáo trở thành một tà đạo. Muhammad viết:

- "Những người Do Thái (lập đạo Ki Tô) là những kẻ đã thay đổi Lời Chúa hoặc xuyên tạc Lời Chúa bằng miệng lưỡi của họ và nhạo báng đạo của Chúa" (of those who are Jews there are those who alter the words of God... distorting the words with their tongues and taunting about religion - Koran 4: 46).

- "Thật là một thảm họa cho những kẻ viết Thánh Kinh bằng bàn tay của họ rồi nói rằng sách đó do Thiên Chúa ban cho" (Woe, then, to those who write the Book with their hands and then say: This is from Allah - Koran 2: 79).

Muhammad ca ngợi Jesus là người hết lòng tôn thờ Thiên Chúa Allah - kinh Koran có thuật lại lời cầu nguyện của Jesus như sau:

"Vinh danh Chúa Allah. Chúa biết những gì con nghĩ trong đầu nhưng con không biết điều gì trong ý Chúa. Chỉ có chúa là Đấng Thông Biết mọi sự".

(Glory to Allah. Thou knowest what is in my mind and I do not know what is in Thy mind. Surely Thou art the great knower of the unseen things - Koran 5:117)

Đối với đạo Hồi, Jesus được coi là một người công chính giống như tiên tri Elisha của đạo Do Thái. Kinh Koran viết: "Jesus và Elisha đều chung một hàng của những người Công Chính".

(Jesus and Elisha were all in the rank of the Righteous. Koran 6: 85)

Nhưng các tín đồ Ki Tô Giáo lại bị người Hồi Giáo coi là "những kẻ không tin Chúa" (The disbelievers) và họ sẽ phải chịu hình phạt sau đây do người Hồi Giáo dành cho họ:

"Chúng ta sẽ gieo kinh hoàng nơi trái tim của những kẻ không tin đạo. Cho nên, hãy chặt đầu chúng và bứt hết các đầu ngón tay của chúng!" (We will cast terror into the hearts of those who disbelieve. Therefore strike off their heads and strike off every fingertips of them - Koran 8: 12).

Nguồn http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=243

ẢNH HƯỞNG THẦN HỌC DO THÁI VÀ KITÔ GIÁO TRONG NIỀM TIN ĐẠO HỒI


ẢNH HƯỞNG THẦN HỌC DO THÁI VÀ KITÔ GIÁO

TRONG NIỀM TIN ĐẠO HỒI

(The Judeo - Christian Theology in Muslim Beliefs)

Trong lịch sử văn hóa Tây Phương, Abraham là người đầu tiên đưa ra chủ thuyết chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất (The Unity God) vào khoảng năm 2000 TCN. Do đó, Abraham được coi là ông tổ chung của các đạo Độc Thần (Monotheism) tức là các đạo Thiên Chúa. Năm 1250 TCN, Maisen (Moses) canh cải lại đạo của Abraham với sách Torah (Law) để thành lập ra đạo Do Thái như hiện nay (Mosaic Judaism). Đạo này còn được gọi là đạo Maisen để phân biệt với đạo Do Thái cũ của Abraham (Abrahmie Judaism).

Đầu thế kỷ 1 sau Công Nguyên, Jesus sinh ra và lớn lên trong lòng đạo Do Thái đã có những tư tưởng cải cách tôn giáo và xã hội. Sau 3 năm rao giảng chủ thuyết của mình, Jesus đã bị đế quốc La Mã giết chết vào năm 30 sau Công Nguyên. Bốn mươi năm sau khi Jesus chết, một số người ở Hy Lạp viết sách kể chuyện cuộc đời và thuật lại những lời nói của Jesus. Những sách này được gọi là sách Tin Mừng (Good News), tiếng Hy Lạp gọi là Gospel, người Tàu dịch là Phúc Âm. Các sách Phúc Âm đã biến Jesus thành Thiên Chúa của đạo Ki Tô.

Đến đầu thế kỷ 7, một thương gia tên Muhammad tại thành phố Mecca, thuộc xứ Arabia, đã bỏ ra 23 năm ròng rã để viết sách Qu'ran (Koran) thuật lại những điều Thiên Chúa phán dạy qua trung gian là thiên thần Gabriel. Muhammad không nhận mình là tác giả của kinh Koran mà chỉ là người thuật lại mà thôi ( a reciter).

Kinh Torah trở thành đại diện cho Bộ Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Các sách Phúc Âm (Gospels) là nòng cốt của đạo Ki Tô. Kinh Koran là căn bản của đạo Hồi.

Muhammad đã xác định trong kinh Koran: Đạo Hồi là đạo thờ một Thiên Chúa duy nhất. Kinh Koran được Thiên Chúa soi sáng để xác nhận lại những điều Chúa đã mặc khải trong kinh Torah (Cựu Ước Do Thái) và trong sách Phúc Âm (sách Tân Ước của đạo Ki Tô). Kinh Koran nói rõ điều đó: "Chúa đã mặc khải cho con - Muhammad - cuốn Thánh Kinh của Chân lý để xác nhận những điều đã được mặc khải trước đó như đã mặc khải trong kinh Torah và trong Phúc âm". (God hath revealed to thee - Muhammad - the Scripture with truth confirming that which was revealed before it as He revealed the Torah and the Gospel - k3: 3).

Như vậy, chính giáo chủ Muhammad đã xác định đạo Hồi là đạo thứ ba trong hệ thống tôn giáo độc thần của Abraham, sau đạo Do Thái và đạo Ki Tô.

Tuy nhiên, theo quan điểm của đạo Hồi, hai đạo Do Thái và Ki Tô có trước từ lâu nhưng các tín đồ Do Thái cũng như các tín đồ Ki Tô đều đã đi sai đường với những giáo lý lầm lạc. Ông kêu gọi các tín đồ Hồi Giáo đừng kết bạn với những người đó để khỏi bị lầm lạc như họ:

"Hỡi các tín đồ Hồi Giáo!
Đừng kết bạn với các tín đồ Do Thái và Ki Tô Giáo. Thiên Chúa không dẫn đường cho những kẻ lầm lạc ấy."(Oh ye who believe! Take not the Jews and Christians for friend. Allah guideth not wrongdoing folk - Koran 5: 51).
Các tín đồ Do Thái và Ki tô Giáo là bạn thân

Vì hai đạo thờ Chúa là đạo Do Thái và đạo Ki Tô đã bị các giới tu sĩ làm cho sai lạc rất nhiều, nhất là đạo Ki Tô đã biến thành tà đạo Đa Thần (thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) và tôn thờ ảnh tượng như những kẻ ngoại giáo. Họ đã làm mất đi ý nghĩa quan trọng của đạo Thiên Chúa là chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất mà thôi. Chính vì vậy, Thiên Chúa đã lập đạo Islam là một đạo Độc Thần đúng nghĩa. Koran ghi lời Chúa phán:

"Hôm nay ta đã hoàn thiện một tôn giáo và chọn cho tôn giáo đó tên gọi là Islam". (This day have I perfected your religion and I have chosen for you as religion al - Islam - Koran 5: 3)

Đọc qua các kinh sách của đạo Hồi, cũng như các sách sử trong 14 thế kỷ tồn tại của tôn giáo này, chúng ta nhận thấy một thái độ rất rõ rệt của người Hồi Giáo là: Một mặt họ rất nghi kỵ và thù nghịch với các tín đồ Do Thái và Ki Tô Giáo, nhưng đồng thời họ lại rất tôn kính các vị giáo chủ như Maisen (Moses) Jesus và các vị tiên tri của các sách Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Họ tôn kính gọi tất cả các vị nói trên là Thiên Sứ (Messengers). Tiếng Ả Rập là NABI.

Đối với Hồi Giáo, chỉ có sự sai lầm trong các tín đồ Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo mà thôi. Trái lại, các thiên sứ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô đều không sai lầm. Chính vì vậy, những điều mà Thiên Chúa đã mặc khải cho các vị thiên sứ của hai đạo nói trên đều là những điều cốt yếu của đức tin Hồi Giáo. Điều này được kinh Koran xác nhận rất rõ ràng như sau: "Đức Tin của chúng ta là đức tin của Abraham. Chúng ta tin Thiên Chúa và những điều Chúa đã phán truyền cho tổ phụ Abraham, Ismael, Isaac, Jacob và con cháu của Ngài. Chúng ta tin những điều Thiên Chúa đã xác minh với Maisen và Jesus".

(Ours is the creed of Abraham. We believe in God and in that which has been bestowed upon Abraham, Ismael, Isaac, Jacob and their descendants and that which has been vouched to Moses and Jesus - Koran 2: 35-36).

Các sách viết về giáo lý Hồi Giáo đều đồng nhất tóm lược tất cả các tín-điều căn-bản (fundamental beliefs) thành 6 điều chính yếu được gọi là "SÁU TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN" (The Six Pillars of Faith):

1. Tin có một Thiên Chúa Duy Nhất (The Only God).

2. Tin có các Thiên Thần và Ma Quỉ

3. Tin các sách Mặc Khải (Books of Revelation)

4. Tin các vị Thiên Sứ (Messengers/Prophets)

5. Tin có ngày tận thế, xác kẻ chết sống lại, mọi người sẽ được Thiên Chúa xét xử trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng.

6. Mọi việc do Thiên Chúa tiền định, nhưng mọi người đều có ý chí tự do.

TÍN ĐIỀU 1: TIN CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT

Điểm đặc biệt trong quan niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi là luôn luôn nhấn mạnh đến đặc tính duy nhất tuyệt đối của Thiên Chúa (the absolute Oneness of God). Đạo Hồi hoàn toàn phủ nhận các huyền thoại về "Con của Thiên Chúa" hoặc "Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người". Kinh Koran ghi như sau: "Thiên Chúa không chọn ai làm con và không chọn một đồng sự nào trong thẩm quyền tuyệt đối của Ngài".

(God had chosen no son, nor had He any partner in the absolute sovereignty - Koran 25: 2).

Căn cứ vào kinh Koran, giáo lý của giáo phái Sunni đã giảng rộng thêm như sau: "Thiên Chúa là Một, không có một ai tương đương với Ngài, Thiên Chúa không có khởi đầu và không có kết thúc. Ngài là thường hằng vĩnh cửu. Ngài vừa là Alpha vừa là Omega - chữ đầu và chữ cuối trong mẫu tự Hy Lạp - Ngài vừa ẩn vừa hiện. Ngài có thật và muôn đời".

(Allah is One, without any like him, having no equal, having no beginning, having no end. Ever - existing. He is both Alpha and Omega. The Manifest and the Hidden. He is real and eternal).

Đạo Hồi phủ nhận con người là hình ảnh của Thiên Chúa vì Thiên Chúa là đấng vô hình, không có thân thể (God is not a formed body). Ngài chẳng bao giờ xuống thế làm người và vì là vô hình nên chẳng có ai ngồi ở bên tả hay bên hữu của Ngài.

"Thiên Chúa là đấng chỉ có Một ngôi duy nhất (không bao giờ có ba ngôi) Ngài không sinh Chúa Con và cũng không do ai sinh ra. Chẳng một ai giống Thiên Chúa cả."

(Allah is One. He begets not, nor is He begotten. And none is like Him - Koran 112: 1-4)

Đạo Hồi quan niệm Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đã sáng tạo vũ trụ theo đúng quan niệm của đạo Do Thái và Ki Tô trong sách Sáng Thế Ký (Genesis). Kinh Koran nhắc lại những điều đó như sau:

"Thiên Chúa dựng nên bầu trời và mặt đất trong sáu ngày và rồi Ngài ngự trên ngai của Ngài. Ngài kéo màn đêm phủ lên ban ngày và ngày đêm cứ nối tiếp nhau không ngừng. Sau đó Ngài dựng lên mặt trời, mặt trăng và những vì sao". (Allah created the heavens and the earth in six days then He descended his throne - He throws the veil of night over the day which it pursues incessantly and then He created the sun and the moon and the stars - Koran 7: 54).

Đạo Hồi, cũng như đạo Do Thái và đạo Ki Tô, đều tin tưởng Thiên Chúa đã tạo dựng nên tổ tiên của loài người là Adam và Evà từ một cục đất sét:

"Ta đã dựng nên con người từ đất sét khô và ta thở vào nó tinh thần của Ta". (We created man from dry clay and breathed of My Spirit into him - Koran 15: 23).

Trong kinh Koran (chương 2 và chương 20) thuật lại chuyện Adam và Evà ăn trái cấm giống như trong sách Sáng Thế Ký của đạo Do Thái. Nhưng Hồi Giáo cũng như Do Thái Giáo đều không tin hành động ăn trái cấm của Adam - Evà cấu thành "Tội Tổ Tông" đến nỗi Con của Chúa Trời phải đầu thai làm người và chịu chết trên thập giá để chuộc cái tội đó! Huyền thoại về Tội Tổ Tông (The Original Sin) là sản phẩm tưởng tượng của tên đạo khùng Augustine (354-450) gốc Algeria. Tên đạo khùng Augustine được coi là kẻ lập ra đạo Ki Tô đứng hàng thứ hai sau Phao lô.

Tóm lại, ý niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi hoàn toàn đồng nhất với ý niệm của đạo Do Thái. Cả hai đạo độc thần này kịch liệt chống lại ý niệm Ba Ngôi Thiên Chúa và lề thói tôn thờ ảnh tượng của đạo Ki Tô (Công Giáo và Chính Thống).

TÍN ĐIỀU 2: TIN CÓ CÁC THIÊN THẦN VÀ MA QUỈ

Niềm tin vào các Thiên thần, nhất là các Thiên thần hộ mạng, là niềm tin chung của các đạo Thiên Chúa. Theo các nhà nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay có tới 70% dân Mỹ tin có Thiên thần. Nói chung, người ta cho rằng Thiên thần là những sinh vật linh thiêng (spiritual beings) có nhiệm vụ làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Vì vậy Thiên thần cũng được coi là Thiên sứ (messengers of God).

Ý niệm về Thiên thần đã có từ trên 4000 năm qua. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại thành phố UR ở Babylon một phiến đá có khắc hình nổi một người đàn ông có hai cánh. Hình này được xác định thuộc niên đại 2300 năm TCN. Tuy nhiên, ý niệm về Thiên thần của Babylon đã không đi vào Kinh Thánh Do Thái.

Các nhà tôn-giáo-học chuyên nghiên cứu về Thiên thần cho rằng ý niệm Thiên thần phát xuất từ Hỏa Giáo Ba Tư (Zoroastrianism). Hỏa Giáo được sáng lập bởi một triết gia Ba Tư tên là Zoroaster vào khoảng thế kỷ 12 TCN. Hỏa giáo trở thành quốc giáo của đế quốc Ba Tư từ thế kỷ 10 TCN đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Vào năm 579 TCN, đế quốc Ba Tư chiếm Babylon (tức Iraq ngày nay), đến năm 539, Ba Tư chiếm Do Thái và cai trị vùng này nhiều thế kỷ. Do đó, đạo Do Thái đã du nhập các ý niệm về Thiên thần của Hỏa Giáo từ thời gian này. Các sách Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái có trước thời gian này đều không nói gì đến các Thiên thần.

Ki Tô Giáo du nhập ý niệm Thiên thần của Hỏa Giáo Ba Tư qua sách Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Tuy nhiên, Ki Tô Giáo đã khai thác ý niệm Thiên thần nhiều hơn đạo Do Thái.

Đối với Ki Tô Giáo, Thiên thần Gabriel trở thành một Thiên thần chuyên về việc đi thông báo các mệnh lệnh của Thiên Chúa. Chẳng hạn Gabriel báo tin cho bà Maria về việc bà thụ thai để sinh ra Jesus hoặc báo tin cho Joseph phải trốn sang Ai Cập v.v... Thiên thần Micae được Công Giáo La Mã khắc họa như một tên lính La Mã tay cầm cái giáo dài đâm vào đầu một con rắn mà ông ta đạp dưới chân. Dưới thời Ngô Đình Diệm làm tổng thống VNCH, Thiên thần Micae (Micheal/ Saint Michel) được Diệm chọn làm thánh tổ của binh chủng nhảy dù. Con rắn ở dưới chân của thiên thần Micae được giải thích là biểu tượng của chủ nghĩa "Cộng Sản vô thần" . Trong thực tế, binh chủng nhảy dù đã là lực lượng chủ yếu làm cuộc đảo chánh chống Diệm năm 1960 và lật đổ chế độ Diệm năm 1963. Con rắn dưới chân Thiên thần Micae trong thực tế là biểu tượng của chính chế độ Công Giáo Ngô Đình Diệm!

Ý niệm về các Thiên thần của Hỏa giáo Ba Tư truyền qua đạo Do Thái và đạo Ki Tô sang đạo Hồi. Trong đạo Hồi, thiên thần Gabriel trở thành một vị Thiên sứ đặc biệt của Thiên Chúa Allah truyền mọi mệnh lệnh và mọi điều mặc khải cho Muhammad ghi chép. Vì vậy kinh Koran được gọi là "Thiên Kinh" ghi chép lời Chúa (Words of God). Nếu không tin có Thiên thần thì kinh Koran sẽ bị mất hết giá trị và không thể có đạo Hồi. Tin tức đầu tiên mà Gabriel thông báo cho Muhammad biết là việc Thiên Chúa đã chọn ông làm Tông Đồ của Ngài: "Này Muhammad! Con đã được Thiên Chúa chọn làm tông đồ của Ngài! và ta là Gabriel!" (Oh Muhammad! Thou art the Apostle of God and I am Gabriel! - Muhammad, a biography of the Prophet, by Karen Amstrong, Harper San Francisco 1992, p.83)

Ngoài hai vị Thiên thần Gabriel và Micae rất nổi danh trong các đạo độc thần còn có một số Thiên thần khác không được các đạo này đồng nhất tin theo:

- Thiên thần Raphael được Công Giáo La Mã tin là vị Thiên thần chuyên cứu nguy (the helpful angel). Đạo Do Thái, đạo Hồi và Tin Lành phủ nhận sự hiện hữu của Thiên thần Raphael.

- Về Thiên thần của sự chết: Ki Tô Giáo tin rằng tên của ngài là Andrew. Ngài rất đẹp và nhân từ, thường giúp người ta trút linh hồn trong bình an êm ái. Đạo Hồi gọi tên ngài là Arazel. Ngài đón linh hồn các tín đồ ngoan đạo để rước về thiên đàng. Ngài hành hạ những kẻ không tin Chúa và vứt linh hồn của chúng xuống hỏa ngục.

- Thiên thần Israfel: Cả hai đạo Ki Tô và Hồi đều tin rằng đến ngày tận thế, tức là Ngày Phán Xét Cuối Cùng, Thiên thần Israfel sẽ thổi kèn trumpet để đánh thức tất cả mọi người chết sống dậy để tập trung tại thung lũng Kindron ở ngoại ô Jerusalem nghe Chúa phán xử lần chót có tính chung quyết!...

Quan niệm về Quỉ: Cả ba đạo độc thần đều đồng nhất trong quan niệm cho rằng quỉ là những Thiên thần sa ngã (fallen angels) nên bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục. Ki Tô Giáo học theo sách Enoch (Book of Enoch) trong bộ Kinh Thánh của Do Thái, một sản phẩm du nhập thần học của Hỏa Giáo Ba Tư, cho rằng Thiên thần Lucifer lãnh đạo một cuộc đảo chánh trên Thiên Đàng để cướp ngôi của Thiên Chúa. Lucifer trở thành hiện thân của lòng kiêu ngạo bị Chúa phạt thành quỉ có đuôi, có sừng và có tai giống tai dơi. Từ đó Lucifer mang tên là Satan. Người Hồi Giáo gọi Satan là Shaitan hoặc Iblis (do phiên âm từ tiếng Hy Lạp Diablos).

Hồi Giáo tin rằng Satan sẽ được Thiên Chúa tha tội trong ngày Phán Xét Cuối Cùng và được phục hồi tư cách thiên thần như xưa. Satan không phải là thủ lãnh của bầy quỉ cai quản hỏa ngục mà chỉ là kẻ cai quản các kẻ ác trên thế gian. Thiên Chúa trao chức vụ thủ lãnh hỏa ngục cho thiên thần Malik (Koran 43: 77).

Ngoài niềm tin về Thiên thần và quỉ, đạo Hồi còn có thêm một loại thần linh thứ ba là Jinn (số ít) hoặc Jinni (số nhiều). Ki Tô Giáo không tin có loại thần linh này. Theo đạo Hồi thì Jinn là một loại thần linh thường biến hình thành người hoặc loài vật, được Thiên Chúa cấu tạo nên từ lửa. Kinh Koran ghi rằng: "Con người được tạo nên bằng đất sét, Jinn được chế tạo từ ngọn lửa" (Man is created from clay, jinn from flames of fire - Koran 55: 14- 15).

Quan niệm về Jinn xuất phát từ Babylon vào khoảng 3000 năm TCN. Người Babylon gọi Jinn là "Cherubims". Đạo Do Thái du nhập "Cherubims" vào Sách Sáng Thế Ký (Genesis) là sách đầu tiên trong bộ thánh kinh của đạo Do Thái. Sách Sáng Thế Ký kể rằng: Sau khi Adam và Evà phạm tội ăn trái cấm liền bị Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng. Chúa sai các Cherubims trú đóng ở phía đông vườn Địa Đàng để chặn lối dẫn đến "Cây của Sự Sống". (God drove out the man and He placed at the east of the Garden of Eden Cherubims to keep the way of the Tree of Life - Genesis 4: 23-24).

Cũng cùng một nguồn gốc từ Kinh Thánh Cựu Ước, Ki Tô Giáo bác bỏ Cherubims nên không bao giờ nhắc tới chúng. Trong khi đó, đạo hồi chấp nhận niềm tin vào Cherubims và gọi chúng bằng tiếng Ả Rập là Jinn.



TÍN ĐIỀU 3: TIN CÁC SÁCH MẶC KHẢI (KINH THÁNH)



Kinh Koran nói rất nhiều đến các sách Mặc Khải (Books of Revelation). Nhưng kinh Koran là sách mặc khải cao quí nhất và quan trọng nhất đối với đạo Hồi. Do vậy, Koran được gọi là "Mẹ của tất cả các sách" (Mother of Books).

Kinh Koran coi sách Cựu Ước của Do Thái cũng là một phần của sách mặc khải: "Các người không thấy những người Do Thái đã được Chúa ban cho một phần của sách mặc khải hay sao? Họ đã được mời gọi đến với Sách mặc khải của Chúa" (Have you not considered Jews who are given a portion of Book? They are invited to the Book of Allah - Koran 3: 23)

Bộ Kinh Thánh của đạo Do Thái có nhiều sách, nhưng chỉ có sách Torah (sách Luật) của Maisen là được kinh Koran nhắc đến nhiều nhất. Sách Torah của đạo Do Thái, sách Phúc Âm của đạo Ki Tô và kinh Koran đều được coi là các sách do Thiên Chúa mặc khải để dạy dỗ và hướng dẫn loài người. Koran ghi lời của Thiên thần Gabriel nói với Muhammad: "Thiên Chúa đã mặc khải cho con Sách Thánh Kinh của chân lý để xác nhận những điều đã được mặc khải trước đó như Ngài đã mặc khải trong Kinh Torah và trong Phúc Âm để hướng dẫn loài người và bây giờ Ngài gửi cho con kinh Koran". (God hath revealed into thee the Scripture of Truth confirming that which was revealed before it as He revealed the Torah and the Gospel, a guidance for the people and He sent you the Qur'an - K3: 3).

Mặc dầu Muhammad ca ngợi các sách mặc khải của đạo Do Thái và đạo Ki Tô, nhưng Muhammad biết rõ thái độ cố chấp hẹp hòi của các tín đồ Do Thái và Ki Tô nên ông đã cảnh giác các tín đồ Hồi Giáo như sau:

"Người Do Thái và Ki Tô không bao giờ hài lòng với các tín đồ Hồi Giáo, ngoại trừ trường hợp các người theo đạo của họ". (The Jews will not be pleased with you, nor the Christians, until you follow their religions - Koran 2: 120).

Các tín đồ Do Thái và Ki Tô đều độc quyền chân lý. Đối với họ, chẳng ai có thể được vào thiên đàng, ngoại trừ phải là tín đồ đạo Do Thái hay đạo Ki Tô. (None shall enter the paradise, except he who is a Jew or a Christian - Koran 2: 111). Muhammad gọi chung những tín đồ Do Thái và Ki Tô là "Những người của các sách Thánh Kinh" (The people of the Book). Ông cảnh cáo họ đừng quá lộng hành trong tôn giáo của họ. (Oh people of the Book, commit no excesses in your religion - Koran: 4: 171)

Những người Do Thái và Ki Tô chửi bới nhau và giết hại nhau trong thời của Muhammad vào cuối thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7. Do đó, Muhammad viết trong kinh Koran: "Người Do Thái chê người Ki Tô không theo điều tốt, người Ki Tô chê người Do Thái không theo điều tốt, mặc dầu họ đều đọc cùng một sách mặc khải. Cho nên Thiên Chúa Allah sẽ xét xử những điều khác biệt của họ trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng" (The Jews say: the Christians do not follow anything good, the Christians say the Jews do not follow anything good while they recited the same Book. So, Allah judge between them on the Day of Resurection in what they differ - Koran 2: 113).

Muhammad thù ghét những người Ki Tô Giáo vì họ là những kẻ thờ ảnh tượng (idolers). Tại chương 9, câu 5 của kinh Koran, Muhammad ra lệnh cho tín đồ giết hoặc bắt bỏ tù những kẻ thờ ảnh tượng: "Khi các tháng thiêng liêng đã qua đi, các tín đồ hãy giết những kẻ thờ ảnh tượng ở bất cứ nơi nào gặp chúng hoặc bắt chúng làm tù binh". (When the sacred months passed away, then slay the idolers wherever you find them or take them captives - Koran 9: 5).

Về các sách mặc khải, kinh Koran nói rất nhiều đến sách Torah của Maisen, các Thánh Vịnh (Psalms) của David và Sách Phúc Âm (Gospel) của đạo Ki Tô. Vậy tôi xin trình bày sơ lược về những sách này và tìm hiểu ảnh hưởng của chúng trong đạo Hồi như thế nào:

1. Torah (The Law). Nhiều sách kinh của Hồi Giáo gọi sách này là Tawrah theo phiên âm Ả Rập. Đây là sách mặc khải quan trọng nhất của đạo Do Thái về người Do Thái đồng hóa Đạo Do Thái với Luật Do Thái hoặc người ta gọi Đạo Do Thái là Đạo của Luật. Bộ Luật này được Thiên Chúa mặc khải trên núi Sinai vào thế kỷ II TCN, tóm tắt lại thành "Kinh Mười Điều Răn" (The Ten Commandments). Đem phân tích luật Torah, mười điều răn trở thành bộ luật Pentateuch gồm có 613 điều luật. Bộ luật này đã chi phối toàn bộ đời sống tinh thần, đời sống kinh tế xã hội của mọi người dân Do Thái trong nhiều ngàn năm qua. Có nhiều điều luật rất chi tiết, chẳng hạn như những điều luật về nghi lễ thờ kính Thiên Chúa: Khi đi lễ phải mang theo súc vật, giết súc vật lấy máu để rưới lên bàn thờ và phải đọc sách mặc khải cho mọi người cùng nghe...

- Luật Torah của đạo Do Thái đã đi vào đạo Ki Tô với bài "Kinh Mười Điều Răn" trong các sách Kinh Nguyện.

- Đạo Hồi không có Kinh Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng Kinh Koran cũng liệt kê mười điều tương tự:

1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa.

2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ.

3. Tôn trọng quyền của người khác.

4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.

5. Tránh giết người, ngoại trừ trường hợp cần thiết.

6. Cấm ngoại tình.

7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.

8. Hãy cư xử công bằng với mọi người.

9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.

10. Hãy khiêm tốn

2. Thánh Vịnh David (Psalms of David).



Theo đạo Hồi thì các Thánh Vịnh của David là do Thiên Chúa mặc khải. (God revealed to Dawood/David Zabur/ Psalms -Sura 4: 163). Sở dĩ David được đề cao trong đạo Do Thái vì lịch sử của dân tộc Do Thái coi David là một anh hùng và là một minh quân hàng đầu. David trở thành biểu tượng của một vị "Cứu Tinh Dân tộc". (Savior of the people). Cứ mỗi lần Do Thái gặp nguy khốn, dân Do Thái lại cầu xin Chúa ban cho họ một đấng Cứu Nguy (Savior) dần dần tạo nên tâm lý của toàn dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế (Messiah) với ý nghĩa là "một David mới" (The New King David). Cũng do vậy nên đã nẩy sinh truyền thuyết cho rằng Đấng Cứu Thế phải là người thuôc dòng dõi vua David.

- Đạo Ki Tô khai thác triệt để truyền thuyết này nên đã tìm mọi cách chứng minh Jesus thuộc dòng dõi của vua David và là Chúa Cứu Thế mà Do Thái mong đợi từ lâu.

- Đạo Hồi không quan tâm đến những điều nói trên mà chỉ quan tâm đến những lời ca ngợi Thiên Chúa đầy nhiệt tình của David mà thôi.

(Trong bài viết "Chủ nghĩa khủng bố là đặc tính chung của các đạo Chúa", tôi đã trích dẫn nhiều câu trong Thánh Vịnh David nên tôi xin miễn nhắc lại ở đây)

3. Phúc Âm (Gospels) Sách Phúc Âm là một bộ sách viết về cuộc đời của Jesus sau khi Jesus đã chết trên 40 năm. Jesus sinh trưởng tại Do Thái nhưng lại nói tiếng Aramaic là ngôn ngữ của xứ Syria. Các sách Phúc Âm lại được viết bằng tiếng Hy Lạp căn cứ trên những lời đồn đại về Jesus ở Jerusalem trên 40 năm trước! Chỉ bấy nhiêu sự kiện cũng đủ cho thấy các sách Phúc Âm không có gì là chính xác.

Đạo Do Thái hoàn toàn phủ nhận các sách Phúc Âm của đạo Ki Tô. Trái với đạo Do Thái, đạo Hồi công nhận các sách Phúc Âm là các sách Mặc Khải của Thiên Chúa và công nhận Jesus là một sứ giả của Thiên Chúa (messenger of God) đứng hàng thứ hai sau Muhammad. Tuy vậy, quan niệm của đạo Hồi về Phúc Âm và Jesus rất khác biệt với quan niệm của Ki Tô Giáo. Tôi đã trình bày vấn đề này trong bài "Jesus dưới cái nhìn của Do Thái và Hồi Giáo", vậy xin miễn nhắc lại ở đây.



TÍN ĐIỀU 4: TIN CÁC VỊ THIÊN SỨ



Theo giáo lý của đạo Hồi thì từ tạo thiên lập địa đến nay, Thiên Chúa đã gửi xuống thế gian 25 sứ giả của Ngài để dạy dỗ loài người. Vị sứ giả đầu tiên chính là Adam, tổ tiên của loài người và vị sứ giả cuối cùng chính là Muhammad. Sau Muhammad không còn bất cứ một sứ giả nào khác. Tất cả các người kế vị Muhammad được gọi là Caliph (khalif) đều chỉ là kế vị với tư cách lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo mà thôi (leader of Islamic community) chứ không ai có tư cách kế vị thiên sứ cả (no successor to Messsenger of God). Muhammad là thiên sứ bất khả kế nhiệm và là thiên sứ lớn hơn tất cả mọi thiên sứ khác. Đối với các tín đồ Hồi Giáo, thiên sứ Muhammad chỉ là một người thường như mọi người nhưng không có ai vượt qua Ngài về sự khôn ngoan và đạo đức.

Trong 25 vị thiên sứ thì đạo Do Thái chiếm tới 18 vị, 3 vị thuộc Ki Tô Giáo và 4 vị còn lại thuộc về Ả Rập. Trong phạm vi bài biết này, nếu kể hết tiểu sử của 25 vị Thiên sứ thì bài này sẽ thành một quyển sách. Chúng tôi xin tóm lược tiểu sử một số vị quan trọng trong cả ba tôn giáo độc thần mà thôi.

Một số tiên tri của đạo Do Thái cũng là Thiên sứ của đạo Hồi:

" Adam: Đạo Hồi có một quan niệm về Adam khác với đạo Do Thái và đạo Ki Tô. Ngoài thiên chức là tổ tông của loài người, Adam còn là vị Thiên sứ đầu tiên của Chúa. Vì vậy, sau khi dựng nên Adam, Thiên Chúa đã ra lệnh cho các thiên thần phải cúi rạp xuống để kính chào Adam và phải tuân lệnh của Adam. Theo đạo Hồi, Adam cao quí hơn các thiên thần - Thiên thần Iblis (Lucifer) không chịu cúi chào Adam nên bị Chúa phạt thành quỉ Satan.

Kinh Koran nói về Adam: "Khi Thiên Chúa Allah tạo nên Adam xong, Ngài thổi thần linh của ngài vào Adam. Xong ngài ra lệnh cho các thiên thần phải cúi rạp xuống để chào Adam. Tất cả các thiên thần đều vâng lời Chúa. Chỉ một mình Iblis (Lucifer) không chịu vâng lời nên bị Chúa phạt thành quỉ từ đó cho đến ngày Phán Xét Cuối Cùng".

(When your Lord said to the Angels: Surely I am going to create a mortal from dust. So when I have made him complete and I breathed into him My Spirit, then all angels fall down making obeisance to him. And the angels did obeisance, all of them. But not Iblis because he was proud. Surely, my curse is on Iblis/ Shaitan to the Day of Last Judgement - Koran 38: 71-78).

" Noah. Người Công Giáo Việt Nam thường gọi ông là NO-E. Noah là cháu đời thứ 10 của Adam-Evà. Noah là người công chính trong thế hệ của ông nên Chúa cho ông biết tin trước về trận đại hồng thủy. Ông đóng một chiếc tàu lớn để chứa gia đình ông và mỗi thứ súc vật một cặp. Sau trận đại hồng thủy thì cả loài người đều chết hết chỉ còn lại những ngừơi và những vật ở trên tàu mà thôi. Trận lụt kéo dài 7 ngày. Khi nước rút thì tàu của Noah bị kẹt trên đỉnh núi Ararat (cao 5168 m ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ). Noah và mọi người giết súc vật làm lễ hy sinh để thờ lạy Chúa. Chúa ngửi thấy mùi thịt nướng sinh vật nên Ngài từ trời nhìn xuống chúc phúc lành cho Noah và các con của ông sinh sản con cháu đầy mặt đất. Noah sống đến 600 tuổi mới chết. Con út của ông tên Shem là tổ phụ các dân tộc Do Thái và Ả Rập. (Sau này Do Thái Ả Rập được gọi chung là giống người Semites, có nghĩa là con cháu của tổ phụ Shem).

" Maisen (Moses) và Aaron. Chuyện về hai nhân vật hàng đầu sáng lập đạo Do Thái hiện hành là Maisen và Aaron được kể trong 2 cuốn sách thuộc Cựu Ước là Xuất Hành (Exodus) và Dân Số Ký (Numbers).

Chương 34 sách Exodus kể rằng: Chúa truyền cho Maisen mang hai tảng đá lên núi Sinai (ở gần Biển Chết). Tại đây, Chúa hiện ra và dùng ngón tay của Ngài viết lên hai phiến đá. Mỗi phiến đá Ngài viết 5 điều răn, tổng cộng là Mười Điều Răn. Viết xong Ngài biến mất. Maisen ở lại trên núi nhiều ngày để tạ ơn Chúa.

Dân chúng Do Thái qui tụ dưới chân núi Sinai nhiều ngày để chờ đón Maisen mà không thấy Maisen xuống, họ nghĩ rằng Maisen đã chết. Do đó, dân chúng Do Thái đã tôn người anh của Maisen là Aaron lên ngôi vị lãnh đạo dân tộc Do Thái thay thế Maisen.

Theo truyền thống lâu đời của dân Do Thái kể từ thời Abraham đến nay là 850 năm, dân chúng vẫn quen thờ thần El dưới hình tượng Con Bò Vàng (The Golden Carf). Do vậy, Aaron ra lệnh thâu góp các nữ trang của dân chúng để đúc thành tượng một con bò to bằng thật để thờ.

Sau khi đúc xong tượng bò vàng, dân Do Thái đã lập bàn thờ ở chân núi và đặt tượng bò lên bàn thờ. Xong dân chúng làm lễ cúng tế thần bò El và cùng nhau nhảy múa ca hát tưng bừng. Vừa lúc đó thì Maisen ở trên núi đi xuống thấy vậy bèn nổi giận và ông dùng 2 phiến đá phá nát tượng bò thần El. Ông ra lệnh cho dân chúng không được tôn thờ ảnh tượng từ đó và đổi tên Thiên Chúa từ Elohim (số nhiều của El) thành Jehovah.

Do chuyện trên trong Cựu Ước Do Thái, Muhammad đã kết tội dân Do Thái là những kẻ thờ bò thay vì thờ Chúa. Ông tôn trọng Maisen trong việc cấm thờ ảnh tượng và ông tin là Chúa đã cho Maisen thẩm quyền cai trị. Kinh Koran ghi như sau: "Những tín đồ của Kinh Thánh đã thờ bò thay vì thờ Thiên Chúa mặc dầu Chúa đã tỏ cho họ thấy những dấu hiệu rõ ràng về Ngài. Nhưng Chúa đã tha thứ cho họ tội này và đã ban cho Maisen thẩm quyền cai trị." (The followers of the Book took the golden carlf for God after clear signs had come to them. But we pardoned this and gave to Moses clear authority - Koran 4: 153).

" Elijah (Elisha). Chương 4 sách Các Vua (Kings) kể chuyện Elijah làm nhiều phép lạ như biến một cái bình không thành một bình đầy dầu (oil) hoặc biến mấy cái thúng trống rỗng thành những cái thúng đầy những ổ bánh mì khiến cho nhiều trăm người ăn no. (Sau này các sách Phúc Âm cũng kể chuyện Jesus làm phép lạ tương tự như vậy). Kinh Koran ca ngợi Elijah là một trong những người tốt nhất thế gian và là tông đồ của Chúa (Koran 6: 86, 38: 48)

" Jonah (Yunus) Thiên Chúa dự tính hủy diệt thành phố Nineveh vì thành phố này có nhiều kẻ không tin Chúa. Thiên Chúa sai Jonah tới thành phố này để khuyên họ trở lại với Chúa thì Chúa sẽ tha tội và không hủy diệt nữa. Chúa ra thời hạn 40 ngày để Jonah thi hành.

Thay vì đi Nineveh, Jonah đã bất tuân lệnh Thiên Chúa dùng thuyền tới thành phố Tarshish. Để trừng phạt Jonah Chúa đã tạo nên một cơn bão lớn. Các thủy thủ trên thuyền biết đây là một hình phạt Chúa dành riêng cho Jonah nên họ đã ném Jonah xuống biển. Một con cá lớn đớp Jonah vào bụng. Jonah biết Chúa đã phạt mình về tội không vâng lời nên ông đã ăn năn hối cải và cầu nguyện Chúa suốt 3 ngày ở trong bụng cá. Cuối cùng, Chúa tha tội cho Jonah và hóa phép cho con cá lớn nhả ông ra trên bãi biển. Câu chuyện này được cả ba đạo Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo công nhận là chân lý. Kinh Koran ca ngợi Jonah là tông đồ của Chúa (K.6: 86, 21: 87)

" Solomon. Solomon là con thứ của vua David. Y giết anh là Adonaijah để đoạt ngôi vua. Bản chất của Solomon còn dâm dật hơn David nên khi lên làm vua y đã xây cất cung viện rất lớn để chứa trên 3000 cung nữ. Tuy vậy, lịch sử và đạo Do Thái vẫn coi Solomon như một minh quân. Solomon xây một ngôi đền thờ Chúa được dân Do Thái gọi là Đền Thánh (The Holy Temple) và được truyền tụng là một kỳ công kiến trúc. Thực sự ngôi đền rất nhỏ (rộng 12 mét x dài 37 mét). Nếu so sánh với đền Ankor Watt của xứ Kampuchea, được xây vào thế kỷ 8, thì đền Ankor lớn hơn đền của Solomon rất nhiều (75 mét x 176 mét). Solomon nổi tiếng là người khôn ngoan và là tác giả cuốn sách Châm Ngôn (Proverbs) trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Kinh Koran ca ngợi Solomon "là tôi tớ xuất sắc của Thiên Chúa và luôn luôn quay về với Chúa" (Solomon was most excellent the servant and he was frequent in returning to Allah - K 28: 30)

" Isaiah. Isaiah xuất hiện trong thế kỷ 8 TCN, ông được coi là người đầu tiên trong đạo Do Thái đưa ra thuyết Tận Thế và tiên đoán sẽ có một vị Cứu Thế (Messiah) ra đời. Tuy nhiên, ông đã định nghĩa "Chúa Cứu Thế là người giải thoát tất cả mọi người bị áp bức" (To let the oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Như vậy, Chúa Cứu Thế nào không giải thoát được những kẻ bị áp bức trên thế gian thì đó chính là Chúa Cứu Thế giả mạo. Đạo Hồi hoàn toàn phủ nhận tư cách "Chúa Cứu Thế" của Jesus, nhưng họ không qui trách Jesus mà qui trách các tín đồ Ki Tô là những kẻ lầm lạc đã tin những điều bậy bạ như vậy.

Ba vị của Ki Tô Giáo được Hồi Giáo coi là Thiên Sứ: Ba nhân vật trong Phúc Âm Ki Tô Giáo được Muhammad đề cao trong kinh Koran là: Jesus, Gioan Baotixita và thân phụ Gioan là Zakaria.

Jesus được Muhammad ca ngợi trong 114 câu thơ, rải rác trong 15 chương sách của Kinh Koran. Điều đó chứng tỏ Jesus có một chỗ đứng khá quan trọng trong đạo Hồi. Người Hồi Giáo tôn kính gọi Muhammad là Thiên Sứ (Nabi) và họ cũng gọi Jesus là Thiên sứ theo ngôn ngữ Ả Rập là Nabi Isa.

Mặc dầu tôn kính Jesus và coi trọng sách Phúc Âm, đạo Hồi đã có những quan niệm rất khác biệt về Jesus và Phúc Âm so với quan niệm của các tín đồ Ki Tô Giáo.

Kinh Koran rất tôn trọng Gioan Baotixita và song thân là ông Zakaria và bà Elizabeth (Công Giáo Việt Nam gọi là bà thánh I-sa-ve). Zakaria là cậu của bà Maria. Khi bà Isave có mang Gioan được 6 tháng thì bà Maria mới bắt đầu mang thai Jesus. Khi bà Maria đến nhà thăm vợ chồng Cậu Zakaria thì bà I-sa-ve đã chúc tụng bà Maria như sau: "Hỡi bà Maria, Chúa đã chọn bà và thanh tẩy bà, Chúa đã chọn bà cao hơn hết thảy các người nữ trên thế gian" (Oh Mary! Allah has chosen you and purified you and chosen you above all the women of the world - Koran 3: 42). Lời chúc tụng của bà Isave (mẹ của Gioan Baotixita) đối với bà Maria (mẹ của Jesus) như nói trên là ý chính của kinh Kính Mừng (Hail Mary) trong đạo Công Giáo: "Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ". Đạo Hồi cấm thờ ảnh tượng nhưng họ vẽ tranh treo tường hoặc dệt thảm những bức họa diễn cảnh Abraham hy sinh con trai Ismael (chứ không phải là Isaac) để tế lễ Thiên Chúa và họ cũng thường vẽ tranh bà Maria bế hài nhi Jesus. Trong đền thờ Káaba ở Mecca là thánh địa thiêng liêng nhất của thế giới Hồi Giáo hiện vẫn còn một bức tranh vẽ Bà Maria bế hài nhi Jesus.

Bức tranh này đã được người Ki Tô Giáo vẽ vào thế kỷ 6. Tháng giêng năm 630, Muhammad mang 10.000 quân đến chiếm Mecca, ông đã ra lệnh phá hủy tất cả các tượng thần và các tranh vẽ trên tường của đền thờ Káabe. Tuy nhiên, Muhammad đã tỏ lòng tôn kính đặc biệt đối với bà Maria và Thiên sứ Jesus nên ông đã cổi áo choàng của mình phủ lên bức tranh duy nhất của Ki Tô Giáo tại đền Kaaba và ra lệnh không ai được phá hủy bức tránh này. Nhờ đó, bức tranh vẫn tồn tại đến ngày nay.

Các Tiên Tri Ả Rập. Kinh Koran chỉ kể tên vài vị tiên tri Ả Rập như Hud, Salid... nhưng không kể tiểu sử của họ nên chúng ta không có tài liệu để bàn tới. Như vậy, chỉ còn một vị tiên tri duy nhất là Muhammad mà thôi. Nhưng nói về Muhammad thì có tới biết bao nhiêu sách nói cho hết. Sau khi đọc nhiều sách về tiểu sử của Muhammad, tôi đã cố gắng tóm lược trong hai bài:

1. "Muhammad tại Mecca (570-622)

2. "Muhammad tại Medina (622-632)".

* *

Trong số 25 vị thiên sứ (gồm có 18 vị thuộc đạo Do Thái, 3 vị thuộc đạo Ki Tô và 4 vị Ả Rập) chỉ có 6 vị được đạo Hồi coi là những vị Thiên sứ quan trọng nhất. Đó là:

Tên phiên âm

Tên Anh Ngữ theo tiếng Arabic

1. Thiên Sứ Mohammed Nabi Muhammad

2. Thiên sứ Jesus Christ Nabi Isa

3. Thiên sứ Moses (Maisen) Nabi Musa

4. Tổ phụ Abraham Nabi Ibrahim

5. Thiên sứ Noah (ông No-e) Nabi Nuh

6. Thiên sứ Adam (ông A-dong) Nabi Adam

Đối với đạo Hồi, chỉ có Moses và Jesus là người Do Thái, còn các vị khác như Adam, Noah và Abraham không thuộc chủng tộc nào cả. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh: Đạo Hồi không coi Moses là người lập đạo Do Thái hay Jesus là người lập đạo Ki Tô. Đạo Hồi coi tất cả các vị Thiên sứ đều là những tín đồ đạo Hồi.



TÍN ĐIỀU 5: MỌI NGƯỜI CHẾT SẼ SỐNG LẠI TRONG NGÀY TẬN THẾ - TẤT CẢ KẺ SỐNG VÀ KẺ CHẾT ĐỀU ĐƯỢC CHÚA XÉT XỬ TRONG NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.



Tín điều 5 là một tín điều tổng hợp liên quan đến nhiều vấn đề phức tạp nhưng lại là những điều mà cả 3 đạo độc thần chấp nhận hoàn toàn. Đó là:

1. Tin rằng con người có hai phần, hồn và xác. Hồn là phần linh thiêng vĩnh cửu. Xác sau khi chết bị hủy hoại hoàn toàn, nhưng đến ngày tận thế xác của mọi người đều sống lại nhập với hồn và sẽ tồn tại vĩnh cửu.

2 . Tin có ngày tận thế.

3. Khi chết, mỗi người đều đã được Chúa xét xử tạm thời. Đến ngày tận thế, tất cả mọi người sống và chết (sống lại) đều được xét xử chung trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng.

4. Tin có Thiên Đàng và Hỏa ngục. Riêng đạo Hồi tin Hỏa ngục không có tính vĩnh cửu mà chỉ là hình phạt tạm thời.

Chúa là đấng nhân lành nên mọi tội đều được Chúa tha thứ. Ki Tô Giáo trái lại tin rằng Hỏa ngục là hình phạt đời đời. Đạo Do Thái và đạo Ki Tô nói rất ít về thiên đàng. Trái lại, Đạo Hồi mô tả Thiên Đàng với nhiều chi tiết hấp dẫn: Thiên đàng có những con sông nước mát và trong vắt, có những con sông đầy sữa hoặc đầy ruợu nho, có những con sông đầy mật, những khu vườn đầy trái cây và đặc biệt có những cô trinh nữ đẹp tuyệt trần chưa bao giờ có ai đụng tới (bashful virgins whom neither man nor a spirit have touched before - Koran 55: 41). Những trinh nữ mắt đen cư ngụ trong những căn lều, dựa lên những chiếc gối màu xanh và những chiếc thảm đẹp (Dark-eyed Virgins sheltered in their tents, they recline on green cushions and fine carpets. Which of your Lord's blessing would you deny? - Koran 55: 68). Đó là những thứ Chúa ban cho anh, há anh lại từ chối sao?

Ngày tận thế là ngày trái đất này bị hủy diệt hoàn toàn. Kinh Koran mô tả: Toàn mặt đất và núi non đều bị nâng lên và đập xuống vỡ vụn. Bầu trời nứt ra từng mảnh (The heaven will split asunder). Ngày tận thế cũng là ngày mọi kẻ chết sống lại (Day of Resurrection, K 50: 42) Ngày họp mặt của toàn thể nhân loại (Day of Assembly K42: 7, 64: 9) ngày mở đầu cuộc sống vĩnh cửu (Day of Eternal Life - Koran 50: 34) và cũng là ngày tính sổ của Thiên Chúa (Day of Reckoning K37: 19-74). Kẻ lành được lên Thiên Đàng, kẻ ác bị đầy xuống hỏa ngục. Đối với niềm tin Hồi Giáo thì những kẻ không tin vào tính duy nhất của Thiên Chúa (như thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) hoặc thờ ảnh tượng đều phải sa hỏa ngục.

Cũng xin nói thêm ở đây là Hồi Giáo và Do Thái Giáo chỉ tin có hai nơi trong đời sau là Thiên Đàng và Hỏa ngục. Riêng Công Giáo La Mã tin có một nơi thứ ba là Luyện Ngục (Purgatoroy). Đó là một thứ ngục tối để giam giữ linh hồn có tính cách tạm thời mà thôi.



TÍN ĐIỀU 6: MỌI SỰ DO THIÊN CHÚA TIỀN ĐỊNH NHƯNG CON NGƯỜI CÓ Ý CHÍ TỰ DO.

Cả 3 tôn giáo độc thần (Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo) đều xác nhận mọi sự trên đời đều do Thiên Chúa tiền định, như người ta thường nói: "Sợi tóc ở trên đầu rụng xuống cũng do ý Chúa định từ trước vô cùng". Nếu đã tin vào thuyết tiền định (Predestination) thì người ta có thể nói rằng: mọi hành vi tốt hay xấu của mỗi người cũng do Chúa định, vậy không một ai phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình cả. Nói cách khác, con người không có quyền tự do chọn lựa vì số phận của con nguời tốt hay xấu, sướng hay khổ đều đã do Thiên Chúa ấn định từ trước vô cùng.

Sự tiền định của Thiên Chúa và Ý chí tự do của con người là hai ý niệm tương phản nhau. Nếu đã tin vào thuyết tiền định thì không thể tin rằng con người có ý chí tự do. Ngược lại, nếu đã tin con người có quyền tự do chọn lựa thì không có tiền định.

Tuy vậy, cả ba tôn giáo độc thần đều chấp nhận cả hai. Hồi Giáo lập luận: "Thiên Chúa dựng nên ta là Ngài đã ấn định số phận của ta" (Thy God hath created and hath fixed thy destinies - Koran 87: 2-3). Nhưng mỗi người có quyền tự do chọn lựa, hoặc tin hoặc không tin: "Chân lý từ Thiên Chúa, ai muốn thì hãy tin, ai không muốn thì đừng tin" (Say the truth is from your Lord, whoever wisheth he may believe, whoever wisheth not he may disbelieve - Koran 18: 30).

* * *

Sau khi đã tìm hiểu sáu tín điều trụ cột của đạo Hồi, chúng ta nhận thấy chỉ có sự khác biệt về chi tiết so với các tín điều của đạo Do Thái và đạo Ki Tô. Xét theo đại thể, các tín điều của ba đạo độc thần đều thống nhất.

Muhammad đã xác nhận đạo Hồi không mang lại một điều gì mới mà chỉ xác nhận lại những điều Thiên Chúa đã mặc khải trong Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái và trong sách Phúc Âm của đạo Ki Tô. Kinh Koran chỉ là một SỰ NHẮC LẠI (Nay, It is an Reminder - Koran 80: 11). Muhammad cũng tự coi mình là một kẻ nhắc lại: "Kẻ nhắc lại đó đến với anh từ Thiên Chúa để cảnh báo anh" (A Reminder has come to you from the Lord that he might warn you - Koran 7: 69)

Nguồn http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=252

Lê Nin và tổ tiên Do Thái của ông ta

Lê Nin và tổ tiên Do Thái của ông ta
http://www.sueddeutsche.de/kultur/verschwoerungstheorien-lenin-und-sein-juedischer-urgrossvater-1.1065462
http://inosmi.ru/history/20110228/166930202.html
Người dịch: theviewingplatform
Lê Nin và tổ tiên Do Thái của ông ta
Lê Nin và tổ tiên Do Thái của ông ta
Ở Liên Xô chi tiết tiểu sử về tổ tiên của Lê Nin, hóa ra, là người Do Thái, được giữ trong tuyệt mật. Người Do Thái thì làm sao? Tưởng có thể đặt dấu chấm hết lên điều đó, song vấn đề này đã và vẫn tiếp tục là cơ sở cho các giả thuyết về âm mưu lật đổ. Tất cả câu chuyện này được kể rõ trong một cuốn sách mới được phát hành.

Có những câu hỏi tưởng như vặt vãnh, song những câu trả lời cho chúng có thể rất không vặt vãnh. Nhà sử học Yohanas Petrovsky-Schtern từ Chicago đã hùng hồn chứng minh điều đó trong cuốn sách mới của mình. Nếu nói về tiến trình lịch sử, thì, về bản chất, việc Lê Nin mang dòng máu Do Thái hay không, hoàn toàn không có ý nghĩa. Nếu ông ta là người Ai-len hoặc Italy, thì điều đó có thể chỉ cần được nhắc qua trong phụ chú nghiên cứu lý lịch về ông ta.

Song, số là việc tìm kiếm các bằng chứng tính Do Thái của cuộc cách mạng vô sản thế giới luôn là đề tài yêu mến của các chủ thuyết âm mưu lật đổ, nên cụ tổ người Do Thái của Lê Nin Moschko Blank hấp dẫn sự chú ý đặc biệt nhiều hơn so với khi nếu tổ tiên của lãnh tụ cách mạng Nga là người Đức hoặc Thụy Điển. 

Trong nghiên cứu súc tích và quan trọng này, Petrovsky-Schtern tìm ra được lời đáp cho năm câu hỏi: Cuộc sống ở địa danh mang tên Starokonstantiniv, nơi Moschko Blank trưởng thành, diễn ra như thế nào? Moschko Blank là ai? Thái độ của Lê Nin về người Do Thái? Ban lãnh đạo Liên Xô có thái độ thế nào, khi phát hiện ra tổ tiên người Do Thái của Lê Nin? Các tác giả cấp tiến cực hữu sử dụng “sự thật mới được khám phá” này như thế nào?

Bản thân cuộc đời Moschko Blank chứa đựng đủ cốt chuyện cho một tiểu thuyết hấp dẫn về xã hội Nga – Do Thái giai đoạn giữa thế kỷ XIX. Ông ta cho thuê ruộng, mua nông sản để sau đó bán lại, cũng như buôn rượu và vodka trong một quán buôn nhỏ của mình tại thành phố Starokonstantinov thuộc Ucraine. Năm 1803, cộng đồng Do Thái lần đầu tiên đưa ra lời buộc tội chống ông ta – ông ta tuồng như ăn cắp rơm và lừa các khách hàng. Sau đó là các khiếu nại nghiêm trọng hơn. Người ta buộc ông ta tội trong thời gian lễ Quá Hải, thay vì vodka hoa quả được phép, đã bán nước ủ men từ ngũ cốc mà việc bán nó, cũng như bánh mỳ chua và các ngũ cốc được gây men khác bị cấm trong thời gian lễ hội.

Nếu căn cứ theo các tài liệu, thì sau khi chuyển đến thành phố tỉnh lẻ lớn Zhitomir, Moschko Blank tiếp tục thể hiện tính ngang tàng của mình. Sau lần cãi nhau kế tiếp, ông ta bỏ tù con trai, phá sản, ông ta bất hòa với hàng xóm, bạn hàng và cộng đồng Do Thái.

Từ bỏ Do Thái giáo

Tất cả những xung đột này chỉ xác nhận việc xa lánh đã từng xảy ra trước đó của Blank khỏi Do Thái giáo và cộng đồng Do Thái mà ông ta từng là một bộ phận. Cuối cùng, vào năm 1844, sau khi vợ chết, ông ta nhập chính thống giáo và lấy tên Dmitry Ivanovich Blank. Hai con trai ông ta Abel và Yisroel được làm lễ rửa tội từ lâu, vào năm 1820, và việc này được làm nhằm mục đích nhận được cơ hội học ngành y ở St. Peterburg, một khi đã trở thành Dmitry và Aleksandr Blank.

Vladimir Ulianov (tức Lê Nin, chú thích của người dịch) lần duy nhất trong đời được trông thấy ông ngoại là bác sỹ Aleksandr Blank, người cho đến thời điểm đó đã 50 năm theo chính thống giáo. Bản thân Vladimir Ulianov lúc đó mới tròn hai tháng tuổi. Không có bằng chứng xác nhận việc Lê Nin, khi đã trưởng thành, biết việc ông ngoại cho đến năm mười sáu tuổi từng giao tiếp với cộng đồng Do Thái, và, hiển nhiên, ông ngoại không hề để lại bất kỳ dấu tích nào trong lý lịch của ông ta.

Sau khi Lê Nin chết vào năm 1924, chị gái Anna của ông ta tiến hành sưu tập tài liệu cho tiểu sử về ông ta, thì bà rất ngạc nhiên, khi phát hiện ra tằng tổ phụ Moschko Blank của họ là người Do Thái. Khi chuẩn bị đăng những tài liệu này, bà vấp phải sự phản đối từ phía ban lãnh đạo đảng. Người đầu tiên phản đối việc đăng các tài liệu được tìm thấy là giám đốc viện lịch sử đảng Lev Kamenhev. Sau đó, bà quay sang xin Stalin cho phép đăng, viện cớ việc đó có thể giúp chấm dứt nạn bài Do Thái phổ biến. Song cả trong trường hợp này bà cũng cụng đầu phải bức tường đá granit. Brezhnev và Gorbachiov cũng giữ lập trường tương tự về vấn đề này. Tài liệu bí mật bị cấm phổ cập, các nhân viên sở lưu trữ làm lộ bí mật bị trừng phạt. Bằng cách đó, ở Liên Xô, ông tổ người Do Thái của Lê Nin bị biến thành bí mật quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt và trở thành huyền thoại mà các thành phần cực hữu sau đó sử dụng rất tích cực.

Có nhiều nguyên nhân để che giấu sự thật này. Bất chấp tính quốc tế chủ nghĩa của phong trào cộng sản, ảnh hưởng của các lực lượng dân tộc chủ nghĩa của Nga trong hàng ngũ bolshevich ngày càng gia tăng. Lê Nin chính thức được coi là nhà cách mạng “Nga”. Vì thế các nhà lãnh đạo cộng sản lo ngại việc các câu chuyện về âm mưu lật đổ (theo thuyết âm mưu lật đổ này, người Đức trả tiền cho Lê Nin, một người Do Thái, để ông ta tiến hành cách mạng vô sản 1917 ở Nga, nhằm bằng cách đó đánh quỵ nước Nga từ bên trong, chú thích của người dịch) có chứng cớ mới, nếu để lộ ra bí mật rằng không chỉ Trotsky, Kamenhev và Zinoviev, mà cả Lê Nin cũng mang dòng máu Do Thái.

Đúng chuyện đó đã xảy ra sau khi Liên Xô tan rã: các thế lực quá khích cấp tiến, những người nhầm tưởng tất cả những gì được viết trong “Biên bản của các nhà thông thái phục quốc Do Thái” là sự thật, bắt đầu gọi Lê Nin là “Do Thái”, nêu danh ông ta là Blank và thấy trong ông ta một bộ phận của âm mưu lật đổ toàn cầu của người Do Thái. Cuốn sách mới được phát hành, song rất quan trọng để muốn nó được dịch ra tiếng Đức, không làm quen đọc giả với Lê Nin như một người Do Thái, bởi không bao giờ có chuyện như thế. Song cuốn sách sẽ kể rất rõ cho đọc giả về thái độ đối với đề tài Do Thái ở Liên Xô, cũng như các thế lực bài Do Thái ở nước Nga hiện nay.




Lịch sử thực sự có những chuyện kỳ lạ


Lịch sử thực sự có những chuyện kỳ lạ, cũng như Holyut nay làm bộ phim kinh dị về TT Lincol đã nói: Những sự thật luôn bị che dấu, còn những bịa đặt lại trở thành lịch sử.
Chuyện về Do Thái, Đức... mình cũng từng đọc rải rác. Cái logic để nghi ngờ ở đây nó cũng giống hệt như thời cận đại. Có nhiều vấn đề khiến ta không bao giờ biết nổi sự thật, nhưng nếu suy nghĩ logic một chút thì hoàn toàn có thể tự rút ra kết luận cho riêng mình:
- Giêrusalem về bản chất lẽ ra là chốn linh thiêng của cả 3 tôn giáo: Công giáo, Do thái giáo và HỒi giáo, nhưng vì sao hiện nay ai cũng tranh nhau nhận là của mình, rồi nước Mỹ lại làm bạn với người Do thái mà xung khắc với Hồi Giáo, trong khi ngay TT Mỹ lại theo Công giáo. Cái gì khiến từ 1 gốc lại tách ra các đức tin đối chọi nhau đến thế?
- Người Do thái từng có dân số đáng kể và lãnh thổ riêng từ thời Công nguyên, nhưng tại sao đến trước 45 họ vẫn lang bạt, dân số tính ra có mức tăng cực thấp, lại thích sống chung trong các xã hội khác và gây bao nhiêu xung khắc lịch sử. Sau WWII đã lập quốc rồi còn muốn mở rộng, hiện nay còn muốn bá chủ hạt nhân trên bán đảo Ả rập thể hiện qua tranh chấp với Iran. Người Do thái như vậy không phải là chỉ hiền lành, thông minh lo buôn bán và làm khoa học. Gen Do thái thực sự lan tràn khắp thế giới từ lâu, và các nhân vật nổi danh thế giới gần đây nhất đều ít nhiều có dòng máu Do thái.
- Những con số thống kê về nhân mạng do phía nào đó công bố trong và sau bất kỳ cuộc chiến nào chưa bao giờ là trung thực, y như con số thiệt hại trong CTVN, số người dân CPC bị PP diệt chủng khi gần 4 triệu, rồi 3 tr, rồi giảm thêm sau thống kê dân số... Nói LX trong WWII mất 20 triệu người là đã giảm từ gần 30 tr ngay sau CT...
- Những bức ảnh về người Do thái hay tù binh trần truồng gầy guộc trong các trại tập trung, hay bãi khai quật xác người...hình như rất hạn chế, mình từng xem từ thời trẻ đến nay vẫn chỉ ngần đó thứ, mà chẳng có gì so để phân biệt có đúng là ở trại của Đức hay của ai khác, lẽ nào phóng viên đã đến chụp hố chôn người chỉ được vài tấm chụp gần không thể thấy quang cảnh, cũng đủ xa để không phân biệt nổi nhân dạng xác ... Nói chung khó thể biết đâu là sự thật. Thế hệ tương lai chắc còn mất nhiều công sức để tái hiện, sau khi lấy ra những tài liệu không còn bị chế độ hiện hành cho là "mật" hay "tế nhị", dễ ảnh hưởng đến quan hệ "quốc tế".

Nạn diệt chủng dân tộc do thái - Sự thật hay bịa đặt!

Nạn diệt chủng dân tộc do thái - Sự thật hay bịa đặt!

SSX Thịt nướng Nga - Шашлык
Chủ đề này sớm hay muộn thì cũng phải nói ra, để ai đó khỏi bị ngộ độc.

Theo định nghĩa của đống rác WIKI (khổ thân, cư dân mạng ngày này toàn bới nhặt trong đó):

Holocaust (tiếng Hy Lạp: holokáutoma: holos - "hoàn toàn" - và kausis - ""thiêu, đốt") là tên gọi của cuộc tàn sát chủng tộc đối với sáu triệu người Do Thái và nhiều nhóm thiểu số khác ở Châu Âu và Bắc Phi trong thời gian Thế chiến thứ hai do Phát-xít Đức và các nước cùng phe gây ra…. Và 6 triệu người Do Thái đã bị hành quyết kiểu đốt xác thủ tiêu holocaust trong các trại tập trung.

Nhưng: Không bao giờ có bất cứ bằng chứng vật lý nào về holocaust. Không có xác người, không có phương tiện, không có tài liệu, không có hình ảnh, không có thư tín chặn bắt được.

danngoc
Nếu SSX bị Judephobia thì làm luôn chủ đề về Quốc tế 2 và QUốc tế 3 toàn của người Do Thái ra sao, Lenin và Trotsky là Do Thái ra sao, và Stalin đã ra tay sửa lại chuyện đó như thế nào cho bà con xem nhe.

SSX Thịt nướng Nga - Шашлык
Rất hân hạnh được bác danngoc đóng góp cho topic này. Chắc rằng sẽ được đọc nhiều bài của bác.

Chúng ta đang đề cập đến vấn đề diệt chủng. Chỉ trong thế kỷ XIX, nước Nga 3 lần được cứu thoát khỏi nạn diệt chủng chỉ bởi tinh thần Nga. Lần 1 năm 1917, lần 2 năm 1945 và lần 3 năm 1991.

Lần 1: Người Nga đã chọn Lê-nin, sau đó là Stalin, phiên bản gần Nga hơn thay vì là Trosky (như ý kiến bác danngoc).

Lần 2: Chiến thắng phát-xít. Hitle cộng tác với Zionist, tài phiệt quốc tế đầu tư cho phát-xít như thế nào là cả một chủ đề có viết cả ngàn trang cũng không hết.

Lần 3: Yelsin trong thế khó buộc phải vay tiền của hệ thống tài phiệt (WB, IMF) để cứu nước Nga. Đổi lấy thỏa thuận tư nhân hóa theo phương tây cho những Do Thái mà chúng chỉ định. Hậu quả đến tận ngày nay như thế nào thì rõ.

Mấy hôm trước thấy có tin này: Youth Union vs “Satan’s army”, và một số nhà "tây học" thì từng nói rằng CN dân tộc Nga chẳng qua là bọn đầu trọc! Zionist hay Satan thì đã biến mất khỏi media phương tây chục năm nay. Nhưng không vì thế mà có nghĩa là nó không tồn tại. Khi ta thấy phương tây cực kỳ đoàn kết thì có nghĩa là quyền lực và tiền sai khiến, nghĩa là chẳng có tự do dân chủ nhân quyền gì ráo. Vào năm ngoái, tòa án Mat-xcơ-va đã từ chối cấm xuất bản cuốn Protocols of the Elders of Zion. Từ đó có thể tóm tắt mấy ý.

1. Đó không phải là fake và có giá trị, không hiểu sao danngoc không hứng thú?

2. Nga không theo hệ thống phương tây, vậy thì có lý do để 1 người trong NNN cũng không theo.

3. Cần làm gì đó trước khi sách vở tử tế bị mua sạch giấu biến. Những thể loại tuyên truyền nhồi sọ tung đầy trên mạng, miễn phí cho các loại sư (trong hệ thống sư sãi vãi tiểu) như bác danngoc. Rõ ràng là cần gạt bỏ lớp chính trị và tuyên truyền ra khỏi vấn đề, để hiểu được nó trên cơ sở học thuật.

Chúng ta đang đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề cũ. Nhưng để tránh lạc lối hay sáo mòn, cần có xuất phát điểm. Có thể có một số điểm xuất phát khác nhau. Không gì hơn nói về nó trên tinh thần Nga. Tinh thần Nga thế nào? Có thể lấy ý kiển của ông Solzhenitsyn (bài #5): Dân tộc Nga không chỉ là máu mà còn là tinh thần. Sự vĩ đại nhất của dân tộc chúng ta đó là sự phát triển bên trong, là bề rộng tâm hồn. Tinh thần Nga và văn hóa Nga đã tồn tại trong hàng thế kỷ. Tất cả những ai cảm nhận mình là một phần của di sản tinh thần ấy, họ thực thụ là người Nga.
Hội chữ thập đỏ quốc tế (HCTĐ) được quyền không hạn chế vào các trại tập trung Đức hàng tháng kể cả trại Auschwitz. Họ có người bên trong báo cáo cho họ chi tiết hoạt động tại các trại.

Ngày 22 tháng 11 năm 1944, trong lá thư HCTĐ viết cho Bộ Ngoại giao Mỹ có đoạn: “Chúng tôi không có khả năng phát hiện bất cứ dấu vết nào các hệ thống máy móc thủ tiêu tù nhân dân sự. Các chứng thực này là bản tin chúng tôi thực sự đã nhận được từ các nguồn khác…”

Đức bắt giữ 150.000 binh lính Anh. 150 người trong đó là các kỹ sư làm việc tại trại Auschwitz-Birkenau để bảo dưỡng nhà máy chế biến than Silesian thành dầu hỏa cho quân đội Đức. Người Đức đã sử dụng công thức gas hóa than được phát triển ở Nga năm 1915. 150 người này nhìn chung đã đi qua trại hàng ngày nhưng đến nay cả tòa Nuremberg hay các nhà nghiên cứu Holohoax đều không dẫn các bằng chứng của họ. Thật lạ lùng.

Các bằng chứng Nazi làm xà phòng và đèn ngủ từ mỡ và da người Do Thái được sử dụng tại tòa Nuremberg đã bị bỏ ra khỏi bảo tàng Holohoax ở Auschwitz và Jerusalem.

Dr. Charles Larson lãnh đạo đội nghiên cứu pháp lý bệnh học đã được cử tới trại lúc chiến tranh kết thúc để tìm bằng chứng tội phạm chiến tranh. Họ tiến hành hàng trăm cuộc mổ xác tại hơn 20 trại, họ không tìm thấy bất cứ ai có dấu hiệu bị đầu độc khí gas. Không có bất cứ ai được tìm thấy kể từ đó, ở bất cứ trại nào.

Zyklon B tìm thấy ở nơi được cho là phòng hơi ngạt tại Auschwitz, Birkenau và Treblinka khi thử nghiệm do chính phủ Ba lan tiến hành năm 1991 dưới sự giám sát nghiêm ngặt của người phụ trách Bảo tàng Do Thái. Cho là Nazi đã quăng Zyklon, thuốc diệt côn trùng thương mại dùng để tẩy uế trong trại, để giết người Do Thái. Vấn đề với kịch bản này là video kín đáo phỏng vấn Giám đốc bảo tàng Auschwitz lại tiết lộ cho cả thế giới thấy các đường trượt (dùng để thả Zyklon) lại được Nga lắp đặt sau chiến tranh.

Encyclopedia Britannica bản 1963 viết rằng 2 triệu người, hầu hết là Do Thái, bị Nazi tàn sát ở trại tập trung Mauthausen-Áo. Sự nhố nhăng ngu xuẩn này đã bị chính thức sửa chữa quá nhiều. Bây giờ là tuyên bố chỉ có 95.000 người chết ở Mauthausen, trong đó có 14.000 người Do Thái. Con số bị cường điệu lên tới 1.905.000! Sau WW-II, bệnh dịch bùng phát tưởng niệm cái chết 4.000.000 người tại trại Auschwitz. Bệnh dịch đã 1 lần giảm con số chết xuống 1.500.000. Nhưng 6 triệu nạn nhân Do Thái bị tàn sát cả thảy thì không ảnh hưởng gì! 1.905.000 giảm ở Mauthausen cộng 2.500.000 giảm ở Auschwitz không thay đổi tổng số 6 triệu. Năm 1990, Bảo tàng Auschwitz chính thức sửa lại 4.000.000 cái chết xuống còn 1.100.000, trong đó có 960.000 tuyên bố là Do Thái (và Ba lan bị đe dọa tống tiền 6 tỷ USD "tài sản người Do Thái"). Nga công bố hồ sơ Xô Viết cũ lấy từ trại Auschwitz thậm chí còn giảm hơn nữa tổng số thiệt mạng tại trại xuống còn 69.000 người. Báo cáo từ HCTĐ ghi tổng cộng 262.077 nạn nhân. Nguyên nhân chết chính: Sốt phát ban.
Rõ ràng, con số 6 triệu Do Thái bị tàn sát là hoang đường. Cùng hoang đường như thế đã được sử dụng ở WW-I để chống lại Kaiser và Nga hoàng trong thời kỳ chiến tranh với tuyên bố 6 triệu Do Thái bị tai họa. Năm 1987 tạp chí Mỹ “Khoa học tôn giáo” tuyên bố gần 6 triệu Do Thái bị giết ở cuộc nổi loạn Kokhba 132-136 AD. Wikipedia viết hoạt động chiến tranh chống Rome dẫn đến cái chết của nửa triệu Do Thái.

Người Do Thái cần thẳng thắn lập kỷ lục về việc tại sao họ bị tai họa qua lịch sử. Ở Cyrene cổ (ngày nay là Libya) người Do Thái thảm sát 220.000 dân vô tội. Trong đảo Cyprus nơi có trại Roman không lớn mà Do Thái cũng đã giết đến 240.000 đàn ông không vũ khí, đàn bà và trẻ em. Chúng uống máu của họ, ăn thịt của họ và làm dây lưng bằng ruột của họ. Rõ ràng lối hành xử man rợ của Do Thái đã nói cho cư dân thế giới cổ căm ghét dân Do Thái từ rất lâu trước khi giáo hội Thiên chúa trở thành chính thức ở đế chế Rome. Thực tế cho dù người Do Thái tài đầu độc giết người hay 

Người Do Thái cần thẳng thắn lập kỷ lục về việc tại sao họ bị tai họa qua lịch sử. Ở Cyrene cổ (ngày nay là Libya) người Do Thái thảm sát 220.000 dân vô tội. Trong đảo Cyprus nơi có trại Roman không lớn mà Do Thái cũng đã giết đến 240.000 đàn ông không vũ khí, đàn bà và trẻ em. Chúng uống máu của họ, ăn thịt của họ và làm dây lưng bằng ruột của họ. Rõ ràng lối hành xử man rợ của Do Thái đã nói cho cư dân thế giới cổ căm ghét dân Do Thái từ rất lâu trước khi giáo hội Thiên chúa trở thành chính thức ở đế chế Rome. Thực tế cho dù người Do Thái tài đầu độc giết người hay sát hại trẻ nam nhỏ làm lễ cúng tế và uống máu, giáo hội Thiên chúa vẫn bảo vệ người Do Thái.

Giáo phái Donmeh là những Do Thái bí mật ở Thổ Nhĩ Kỹ, những kẻ mà tên chỉ như Hồi giáo. Giáo phái Donmeh lập phong trào “Thổ trẻ- Young Turks” và với sự chống lưng của Rothschilds đã làm loạn thành công chống lại vua Sultan năm 1908. Năm 1915, Do Thái ở Thổ tàn sát 1.500.000 người Armenia cộng thêm 250.000 người Hy lạp và Syria. Đây là cuộc tàn sát lớn nhất lịch sử thế giới có đầy đủ tài liệu ghi chép.

Sau khi Do Thái chiếm đoạt Nga, qua CM tháng 10. Chúng giết hại 350.000 thầy tu. Chúng hãm hiếp nửa triệu con gái Nga đến chết. Chúng giết hại rất nhiều người Nga trong trại tập trung. Nạn đói ở Ukraina cũng làm chết đến vài triệu người.

Quá trình săn bắt và buôn bán nô lệ da đen do Rothschilds cầm đầu đã giết hại hàng triệu người da đen. Khi người Mỹ từ chối, những kẻ chưng cất và buôn rượu Do Thái bán rượu cho người India, những kẻ thường giết người da trắng khi say. Rồi binh lính và người da trắng giết người India. Điều đó diễn ra hầu như suốt 2 thế kỷ. 

Cuộc chiến tranh nha phiến Do Thái đã giết hàng triệu người Trung Quốc, hàng chục triệu người mắc nghiện. Buôn người ở Đông Âu, mạng lười tội phạm Do Thái Nga có qui mô gần 250.000 phụ nữ trẻ em bị bắt có làm nô lệ tình dục mỗi năm. Rất nhiều phụ nữ bị sát hại để làm những phim bẩn.. 

Năm 1942, phụ nữ Do Thái ở Palestine đề nghị hàng xóm Arab che chở cho con cái của họ nếu binh lính Đức xâm chiếm. Họ đã được giúp. So với lối hành xử của khủng bố Do Thái Irgun, sát hại tàn nhẫn phụ nữ và trẻ em Arav rồi xẻ xác họ trong ngôi làng Palestine Deir Yassin. Trong 2 năm Zionist Do Thái đã san phẳng 419 ngôi làng của người Arab và xây dựng khu định cư Do Thái. Quá trình đó diễn ra tận ngày nay.

Ngược lại với sự tàn bạo của Do Thái đã biết rõ và chứng minh bên trên là Holocaust. Không bao giờ có bất cứ bằng chứng vật lý nào về Holocaust. Không có xác người, không có phương tiện, không có tài liệu, không có hình ảnh, không có thư tín chặn bắt được. 

Vassily Grossman và Ilya Ehrenburg là 2 truyền giáo Do Thái ở Xô Viết, viết quyển “Sách đen”. Ấn bản đầu tiên những năm 40 hầu như bìa toàn màu đen. Bản hiện nay là 579 trang ảo giác, 4 thi thể bị phanh thây để có thể chất vào lò thiêu một lượt. Mất 15 phút để đốt 4 xác này (287 độ). Với tất cả các lò thiêu hoạt động liên tục có thể đốt hết 1.920 xác trong 24 giờ. Tính đến số nhiều xương người phát hiện quanh các trại, các chiên da cho rằng xương bị lấy ra khỏi lò trước khi bị đốt cháy hoàn toàn, và do đó, thực tế có nhiều hơn 1920 người bị đốt trong 24 giờ. 

Thậm chí là học sinh phổ thông cũng thấy khó hiểu với ngữ nghĩa của câu chuyện bịa Do Thái Xô Viết này. Chẳng thể nào đốt 4 triệu người cho dù có thể đốt chết 1.920 xác mỗi ngày trong 1.400 ngày (hơn 3 năm tồn tại của trại tập trung). Elie Wiesel, nhà văn, nhà sư, nhà hoạt động, nhà Nobel, nhà holocaust sống sót nói hắn ta có số A7713 trong trại tập trung, nhưng để lộ ra chẳng có số săm trên cánh tay.

Sách của hắn, đại loại quyển Night and Miklos Nyiszli in Auschwitz viết: Nhân chứng bác sĩ tính đếm tuyên là 5.000 Do Thái bị đốt chết mỗi ngày trong các hố thiêu ngoài trời ở Auschwitz. Khi CIA công bố ảnh chụp máy bay trại Auschwitz chẳng thấy cái hố nào hay khói nào. Hắn bảo trên ABC rằng Nazi phải đốt người vào đêm không cần các hố đào.

Elie Wiesel khai với tòa án San Francisco rằng hắn có số xăm A7713 trên cánh tay. Người ta thấy ảnh của hắn với cánh tay chẳng có vết xăm nào. Rõ ràng hắn bịa đặt.


Cũng có một số ý kiến đồng ý giảm số nạn nhân của phòng hơi ngạt nhưng tăng số nạn nhân trong các nấm mồ tập thể như 1.500 ở Einstatzgruppen. Ý kiến khác cho rằng Nazi đã tưới xăng đốt xác (thứ khan hiếm trong chiến tranh), khiến tro, xương, đạn, hiện vật biến mất. Nhưng xăng không thể làm xương biến mất. Chẳng có câu chuyện nào kiểu vậy có nghĩa, chỉ có đe dọa tẩy chay hay cấm vận mới làm cho những câu chuyện kiểu đó bán được. 

Rất nhiều nhà nghiên cứu phản đối đã xem xét dân số DT trước và sau chiến tranh. World Almanac (là thống kê dân số của chính người Do Thái) viết có 8.939.608 dân DT ở châu Âu trước WW-II và sau diệt chủng WW-II là 9.372.666. Vậy 6 triệu Do Thái bị diệt chủng ở đâu? Hoặc họ đã che giấu dân Do Thái chạy sạch về Palestine cướp đất thì không thể nói dối về holocaust.

Hiệp ước Luxembourg ký sau WW-II buộc Đức phải trả tiền cho “Sống sót sau diệt chủng” Do Thái và không bao gồm những người Do Thái sống ở Xô-Viết. Chúng ta biết rằng, cho đến tận năm ngoái, 2011 nước Đức mới trả hết nợ họ buộc phải trả từ WW-I, khoản bồi thường chiến tranh WW-I cho những “nạn nhân” này giống như những trái phiếu chính phủ có lợi tức và bị mua đi bán lại hàng trăm hàng ngàn lần. Tiền chẳng bao giờ vào tay các nạn nhân thực sự. Tương tự như thế, tờ tạp chí Atlanta năm 1985 cho biết một nửa số dân Do Thái sống sót đã chẳng bao giờ nhận được tiền bồi thường. Trong khi con số “sống sót” tuyên bố đến 4.3 triệu người trong đó có 3.5 triệu Do Thái.

Sách của Eisenhower “Ditto for Eisenhower’s Crusade in Europe” 559 trang, của Churchill “Second World War” 4.448 trang 6 tập, của Gaulle “Memoirs” 3 tập 2.054 trang, không đề cập bất cứ ý kiến nào về cái gọi là “phòng hơi ngạt”, “diệt chủng” hay “6 triệu nạn nhân” Do Thái.

Trái lại, trại tập trung tử thần Eisenhower (Eisenhower' death Camp) sau WW-II giam giữ tù binh Đức ngoài trời lạnh không lều, không nhà, không thức ăn – bắn bất cứ ai tiếp thức ăn cho tù binh, cấm cửa Hội chữ thập đỏ. Đã có hàng triệu tù binh, kể cả phụ nữ và trẻ em bị chết trong những cái trại như thế. 

Chính các thủ lĩnh Do Thái, các giáo sĩ Judar là những kẻ cực đoan, phân biệt chủng tộc, chúng coi người Do Thái là “Người được Chúa trời chọn” còn các dân tộc khác trên toàn thế giới là súc vật sinh ra để phục tùng bọn chúng. Trái lại, rất nhiều người Do Thái, những người chẳng muốn rời bỏ châu Âu về mảnh đất Palestine cằn cỗi, đặc biệt là những người bên phía Xô Viết, là những nạn nhân của chiến tranh WW-II lại thẳng thắn nói rằng họ chẳng tin vào bịa đặt holocaust. Rất nhiều người Do Thái khác nói 911 là “việc nội bộ”, một số khác nói Israel làm vụ 911. 

Đám chủ nhà băng Do Thái ở New York and London muốn Mỹ đánh Iraq, Afghan, Lybia, Syria, hay Iran…. chúng làm được điều đó, bằng nhiều phương tiện, bằng cách khống chế quyền lực và tiền bạc, bằng cách kiểm soát truyền thông. Chỉ có mất mát và thiệt hại là chính người Mỹ, người Anh, người Pháp phải gánh chịu. 

Nhưng không dừng ở đó, WW-III và NWO đang đến rất gần.

MAO TRẠCH ĐÔNG -GIANG THANH UYÊN ƯƠNG TÀ MA NGOẠI ĐẠO SONG KIẾM HỢP BÍCH : PHÁ GIẢI TRẬN ĐỒ - CỨU NGUY THIẾU TÁ TỐNG VIẾT SƠ -NGUYỄN ÁI QUỐC



"Giang Thanh là người phụ nữ con gái đặc biệt , dù chỉ mới 18 tuổi , không những là một cao thủ trên giường, còn thông minh quỉ quyệt , đam mê Quyền lực . Người đẹp , không những không ghen với những người con gái trẻ xung quanh Chủ tịch Mao , mà còn hướng dẫn dạy dỗ cho họ kỹ thuật trên giường , để Chủ tịch Mao Hài lòng , Vui Vzẻ , ! Đá bay Đệ Nhất Phu nhân Hạ Tử Trân đồ trí thức dổm , quê mùa ! Thời đại văn minh bây giờ mà quan niệm phụ nữ phải Công Dung Ngôn Hạnh , Tam Tòng Tứ Đức, giống như Bà Tống Mỹ Linh , đạo đức giả , làm uổng đời thanh xuân Thiếu nữ của mình !
Thượng đế chỉ ban cho người con gái một thời thiếu nữ ,thanh xuân , phải biết tận dụng , giống như Nữ hoàng Võ Tắc Thiên , hay Từ Hy Thái Hậu , mới xứng đáng là Phụ Nữ Trung Hoa.
Người con gái Giang Thanh , nuôi tham vọng phải là Đệ nhất phu nhân có Quyền lực , còn Chủ tịch Mao thích gái trẻ thì dễ thôi ! Mình sẽ tuyển chọn cho Chủ tịch Mao ! Mới bảo vệ được vị trí Đệ nhất Phu Nhân ! Chứ đâu ngu dốt như Hạ Tử Trân ! Bây giờ bại trận dưới tay mình ở chốn Lãnh cung là đáng đời .

Giang Thanh dù mới chỉ làm người tình Chủ tịch Mao chưa đến 2 tháng , nhưng đã làm cho Chủ tịch Mao Vĩ đại , mê mẩn tâm thần , lên đỉnh Vu sơn ! Những lúc Chủ tịch Mao thân xác rã rời , sau những lúc ái ân với người đẹp trẻ , sung sức , có kỹ thuật . Người đẹp Giang Thanh còn thay mặt Chủ tịch Mao điều hành công việc, ra lệnh cho các ủy viên Trung ương Đảng , các Tướng Lãnh , chỉ có 3 Ông Tướng Đức- Do Thái là người đẹp chưa dám !

Người đẹp khoái chí nghĩ đến 3 Ông Tướng Đức -Do Thái mỗi lần gặp mình , là nhìn mình mới cặp mắt , thèm muốn , như muốn lột trần áo quần mình ra !
Khổ nỗi , mình còn phải thăng tiếng lên Đệ nhất phu nhân có quyền lực ! chứ không mình cũng làm cho Họ Vui Vzẻ rồi ! Mình cũng muốn tìm hiểu về đàn ông Âu Châu ! Mai sau khi mình có quyền lực , phải bí mật cho 3 Ông Tướng da trắng thỏa mãn , Vui Vzẻ , để họ không những là người tình bí mật của mình , mà còn là vây cánh của mình , để giúp mình trị những tên Đàn Ông Đạo Đức giả như Vương Minh , Chu Ân Lai .....

Chỉ biết cơm nhà quà vợ , bày đặt coi thường mình ! Dám nói mình là Mèo mả , Gà đồng , Dâm loàn !.

Đúng là đạo đức giả , ngu ngốc , như Du Khởi Uy , thằng chồng ngu ngốc , bây giờ bày đặt đau khổ khi mất mình ! Mình đâu có yêu Hắn ta đâu ! Lấy Hắn là mình muốn có chồng trí thức , lại là phu nhân Bộ trưởng !
Dĩ nhiên Chủ tịch Mao và Hắn , phải chọn Chủ tịch Mao thôi !"


............................


"Tên An Nam Nguyễn Ái Quốc không còn giá trị để mà lợi dụng nữa ! ..Viễn cảnh để sử dụng Nguyễn Ái Quốc làm Lãnh tụ xứ An Nam là xa vời quá ."

Bỗng Mao Trạch Đông nhớ sực lại : Ông vẫn còn gai nguy hiểm đang đe dọa địa vị của Ông là tên Vương Minh ,bạn thân với Trung tá Lê Hồng Phong, đang là Bí thư Trung ương Đảng , tên Trí thức đạo đức giả này chỉ biết với chung thủy với vợ , cơm nhà quà vợ đúng là quê mùa ,nhưng lại được Đảng viên và Hồng Quân Trung Hoa ủng hộ , cái nguy hiểm nhất là đang được bọn Xét lại Stalin ủng hộ !
Tên phản động , xét lại Vương Minh lại muốn thỏa hiệp với vợ chồng Tưởng Giới Thạch , với Chiêu bài Cải lương là vì Tổ Quốc Trung Hoa , vì Nhân Dân Trung Hoa ! Đúng là Phản động rồi !

****Mao Trạch Đông bỗng nổi giận đùng đùng :tất cả là do Tên Xét lại Stalin , đã phản bội lại Chủ tịch Lê Nin và Lãnh tụ Anh minh Vĩ đại Leon Trotsky ! Phản bội lại Chủ nghĩa Mác Lê Nin , theo đường lối Phản động của bọn Xét lại ,không những ủng hộ Vợ Chồng Tưởng Giới Thạch , mà còn trọng dụng tên An Nam Lê Hồng Phong, nay lại ủng hộ tên đại phản động Vương Minh , đe dọa địa vị Hoàng Đế không ngai của mình !


**Nếu không nhờ những người Đức -Do Thái giúp mình chế tạo vũ khí và đạn dược , và những Tướng lãnh Đức -Do Thái điều quân thì mình đã bại trận từ lâu ! 5 năm nay tên xét lại Stalin có viện trợ cho mình đâu ?

Vụ Thiếu tá Tống Viết Sơ tên An Nam 100% là cũng do Tên Xét lại Stalin ra tay , thông báo cho Bọn Tư Bản Đế Quốc Anh !

Vậy phải làm cho Tên Xét lại Stalin điên lên , tức tối , mới làm mình hả dạ ! Phải cứu Tên An Nam Nguyễn Ái Quốc , để cho Tên Xét lại Stalin biết tài ba của mình và nổi điên lên mới làm mình hả dạ ....'"

------
"

Từ Thủ phủ Diên An ,Chủ tịch Mao ,nhận được tin của Toàn quyền Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier thông báo : Thiếu tá Tống Viết Sơ (Sung Man Ch'o), đã bị Tình báo MI-6 của Anh quốc ,từ Tổng hành dinh Thủ đô Luân Đôn ra lệnh bắt giữ tại Hồng Kông .
Thiếu tá Tống Viết Sơ sẽ bị kết án tử hình ! Vì Đảng cộng sản Trung Hoa của Chủ tịch Mao ,bị chính quyền Anh quốc tại Hương Cảng ( Hồng Kông ) đặt ra ngoài vòng pháp luật ! Tống Viết Sơ lại là Sĩ quan cấp Tá của Đảng cộng sản Trung Hoa tại Trung hoa Lục địa ,đã nhập cảnh bất hợp pháp vào Hồng Kông nên sẽ bị tuyên án tử hình!
Toàn quyền Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier cũng xin lỗi Chủ tịch Mao là không thể can thiệp được! Dù thay mặt nước Đại Pháp ,Toàn quyền Đông Dương Pasquier chân thành cám ơn Chủ tịch Mao và Thiếu tá Tống Viết Sơ (Sung Man Ch'o) đã giúp nước Đại Pháp bắt giữ những tên phản loạn ....

*
Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã nói đúng ! Ông ta không thể nào can thiệp được ! Vì theo luật pháp của Vương Quốc Anh : Thiếu tá Tống Viết Sơ (Sung Man Ch'o) Nguyễn Ái Quốc phải ra Pháp trường trong thời gian ngắn nhất !"


* Trước khi viết tiếp ,tài liệu tại Việt Nam và Wiki tiếng Việt nói rằng :với sự giúp đỡ tận tình của luật sư Anh quôc Frank Loseby ,Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô ?

Nói thật nha ! Dù một chục ngàn (10.000) Luật sư cũng bó tay ? Không lẽ Luật sư Frank Loseby dám ngồi xổm lên Luật pháp của Anh Quốc sao ?
Chưa kể đến bây giờ vẫn nói là Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh 1890 ? Thật sự là sinh 1892 .
1911 để xin làm phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville sang Pháp ,Thanh niên Nguyễn Tất Thành phải khai lên 2 tuổi cho đủ 21 tuổi .!
Hồ sơ KGB , MI-6 , Phòng nhì của Pháp vẫn là tuổi thật 1892 !

Chưa kể khi đến Pháp trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông đã khai sự thật là sinh năm 1892.

*Nếu tại Việt Nam và Wiki tiếng Việt vẫn lấy năm sinh là 1890 , thì phải là tên Văn Ba phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville sang Pháp 1911 ! Không thể nào lấy tên Nguyễn Sinh Cung , Nguyễn Tất Thành , Nguyễn Ái Quốc Tống Viết Sơ (Sung Man Ch'o )được , vì những tên này là sinh 1892 !



***Nếu quả thật Luật sư Frank Loseby cãi trắng án Nguyễn Ái Quốc Tống Viết Sơ (Sung Man Ch'o ) 1932 , thì có nghĩa là Luật sư Frank Loseby kết tội Hoàng Đế Anh Quốc George V 1910-1936, Thủ tướng Anh Quốc Ramsay MacDonald 1931-1935 đã làm tầm bậy khi ủng hộ Thống chế Tổng thống Tưởng Giới Thạch , mới đặt Đảng Cộng Sản Trung Hoa ra ngoài vòng Pháp Luật tại Hồng Kông ?
Mà đáng lẽ theo Công lý ,Hoàng Đế Anh Quốc George V và Thủ tướng Anh Quốc Ramsay MacDonald phải có bổn phận và trách nhiệm ủng hộ và viện trợ cho Chủ tịch Mao , và cho phép Đảng Cộng Sản Trung Hoa hoạt động hợp pháp tại Hồng Kông ?
Ông Luật sư Frank Loseby dám nói như vậy không ? Bất chấp tội Khi Quân bị chém đầu sao ?
Không những tội Khi Quân , mà còn tội ủng hộ Cộng sản nữa !Tội Phản quốc nữa , vì có nghĩa là ủng cộng sản tại Anh lật đổ Chính phủ Hoàng gia Vương quốc Anh ?

MAO TRẠCH ĐÔNG -GIANG THANH UYÊN ƯƠNG TÀ MA NGOẠI ĐẠO SONG KIẾM HỢP BÍCH PHÁ GIẢI TRẬN ĐỒ

MAO TRẠCH ĐÔNG -GIANG THANH UYÊN ƯƠNG TÀ MA NGOẠI ĐẠO SONG KIẾM HỢP BÍCH PHÁ GIẢI TRẬN ĐỒ
MAO TRẠCH ĐÔNG -GIANG THANH UYÊN ƯƠNG TÀ MA NGOẠI ĐẠO SONG KIẾM HỢP BÍCH PHÁ GIẢI TRẬN ĐỒ

Giang Thanh là người phụ nữ con gái đặc biệt , dù chỉ mới 18 tuổi , không những là một cao thủ trên giường, còn thông minh quỉ quyệt , đam mê Quyền lực . Người đẹp , không những không ghen với những người con gái trẻ xung quanh Chủ tịch Mao , mà còn hướng dẫn dạy dỗ cho họ kỹ thuật trên giường , để Chủ tịch Mao Hài lòng , Vui Vzẻ , ! Đá bay Đệ Nhất Phu nhân Hạ Tử Trân đồ trí thức dổm , quê mùa ! Thời đại văn minh bây giờ mà quan niệm phụ nữ phải Công Dung Ngôn Hạnh , Tam Tòng Tứ Đức, giống như Bà Tống Mỹ Linh , đạo đức giả , làm uổng đời thanh xuân Thiếu nữ của mình ! 
Thượng đế chỉ ban cho người con gái một thời thiếu nữ ,thanh xuân , phải biết tận dụng , giống như Nữ hoàng Võ Tắc Thiên , hay Từ Hy Thái Hậu , mới xứng đáng là Phụ Nữ Trung Hoa.
Người con gái Giang Thanh , nuôi tham vọng phải là Đệ nhất phu nhân có Quyền lực , còn Chủ tịch Mao thích gái trẻ thì dễ thôi ! Mình sẽ tuyển chọn cho Chủ tịch Mao ! Mới bảo vệ được vị trí Đệ nhất Phu Nhân ! Chứ đâu ngu dốt như Hạ Tử Trân ! Bây giờ bại trận dưới tay mình ở chốn lãnh cung là đáng đời . 

Giang Thanh dù mới chỉ làm người tình Chủ tịch Mao chưa đến 2 tháng , nhưng đã làm cho Chủ tịch Mao Vĩ đại , mê mẩn tâm thần , lên đỉnh Vu sơn ! Những lúc Chủ tịch Mao thân xác rã rời , sau những lúc ái ân với người đẹp trẻ , sung sức , có kỹ thuật . Người đẹp Giang Thanh còn thay mặt Chủ tịch Mao điều hành công việc, ra lệnh cho các ủy viên Trung ương Đảng , các Tướng Lãnh , chỉ có 3 Ông Tướng Đức- Do Thái là người đẹp chưa dám !

Người đẹp khoái chí nghĩ đến 3 Ông Tướng Đức -Do Thái mỗi lần gặp mình , là nhìn mình mới cặp mắt , thèm muốn , như muốn lột trần áo quần mình ra !
Khổ nỗi , mình còn phải thăng tiếng lên Đệ nhất phu nhân có quyền lực ! chứ không mình cũng làm cho Họ Vui Vzẻ rồi ! Mình cũng muốn tìm hiểu về đàn ông Âu Châu ! Mai sau khi mình có quyền lực , phải bí mật cho 3 Ông Tướng da trắng thỏa mãn , Vui Vzẻ , để họ không những là người tình bí mật của mình , mà còn là vây cánh của mình , để giúp mình trị những tên Đàn Ông Đạo Đức giả như Vương Minh , Chu Ân Lai .....

Chỉ biết cơm nhà quà vợ , bày đặt coi thường mình !Dám nói mình là Mèo mả , Gà đồng , Dâm loàn .

Đúng là đạo đức giả , ngu ngốc , như Du Khởi Uy , thằng chồng ngu ngốc , bây giờ bày đặt đau khổ khi mất mình ! Mình đâu có yêu Hắn ta đâu ! Lấy Hắn là mình muốn có chồng trí thức , lại là phu nhân Bộ trưởng ! 
Dĩ nhiên Chủ tịch Mao và Hắn , phải chọn Chủ tịch Mao thôi !
NỮ DIỄN VIÊN GIANG THANH TRONG BỘ PHIM ĐEN TRẮNG TÂY THI
MAO TRẠCH ĐÔNG TRIỆT THOÁI KHỎI THỦ PHỦ DIÊN AN 9.1932 , 3 TƯỚNG ĐỨC -DO THÁI ĐIỀU QUÂN 

THỐNG CHẾ -TỔNG THỐNG TƯỞNG GIỚI THẠCH VÀ ĐỆ NHẤT PHU NHÂN NỮ TRUNG TÁ KHÔNG QUÂN , TỐNG MỸ LINH : TRÊN LƯNG CHIẾN MÃ TIẾN QUÂN NHƯ THẾ CHẺ TRE ĐANG TIẾN VỀ DIÊN AN 
ĐỆ NHẤT PHU NHÂN GIANG THANH 

CHỦ TỊCH MAO VĨ ĐẠI VÀ ĐỆ NHẤT PHU NHÂN THƯỢNG TƯỚNG GIANG THANH (TỰ PHONG ) TRÊN ĐƯỜNG VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH TRỐN CHẠY KHỎI SỰ TRUY BẮT CỦA THỐNG CHẾ -TỔNG THỐNG TƯỞNG GIỚI THẠCH VÀ ĐỆ NHẤT PHU NHÂN NỮ TRUNG TÁ KHÔNG QUÂN , TỐNG MỸ LINH

Vạn lý Trường Chinh : Mao Trạch Đông -Giang Thanh được 3 Tướng Đức -Do Thái Bảo vệ và điều quân : Hồng quân Trung Hoa có hơn 86 ngàn quân , nhưng khi kết thúc cuộc Vạn lý Trường chinh, số Hồng quân sống sót chỉ còn ít hơn 7 ngàn quân.

Tư lệnh Rút quân Vạn lý Trường Chinh là Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun do Leon Trotsky gởi đến từ 1929 
Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun -Đảng viên Cộng Sản Đức- Do Thái Tư lệnh Vạn Lý Trường chinh 370 ngày 

Tương quan lực lượng lúc bắt đầu cuộc Vạn Lý Trường Chinh như sau:Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun có gần 90.000 Hồng quân với 33,243 khẩu súng đủ loại, trong đó có 651 súng hạng nặng, 38 khẩu moọc-chê, hai triệu băng đạn, gần ba ngàn đạn moọc-chê và gần 80 ngàn lựu đạn.

***Thống chế Tổng thống Tưởng Giới Thạch , và Đệ Nhất Phu Nhân Tống Mỹ Linh Tư lệnh 100 trung đoàn, gồm khoảng từ 300 tới 400 ngàn quân để truy kích Mao Trạch Đông - Otto Braun.

**

Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun ra lệnh đi xuyên qua những đỉnh núi cheo leo hiểm trở , cắt đường rừng , mà đi ,những con đường mà người dân Trung hoa chưa bao giờ đặt chân đến .
Đại Tuyết Sơn tỉnh Vân Nam, trên đường Vạn Lý Trường Chinh Trốn chạy , Mao Trạch Đông -Giang Thanh nằm võng được quân lính cáng trong 370 ngày đêm ! Đau khổ nhất là hàng trăm cô gái trẻ đẹp của Mao Trạch Đông lần lượt chết , vì sương lam chướng khí nên bị bệnh , là Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun và Mao ra lệnh thảm sát , để khỏi vướng bận !

**Thống chế Tổng thống Tưởng Giới Thạch , và Đệ Nhất Phu Nhân Tống Mỹ Linh điều động Đại quân chờ sẵn tại bờ sông Giang Tây

*Trận đánh sông Tây Giang : 25 tháng 11 đến ngày 3 tháng 12

Thống chế Tổng thống Tưởng Giới Thạch , và Đệ Nhất Phu Nhân Tống Mỹ Linh trên lưng Chiến mã điều động Đại quân xung trận quyết tâm tiêu diệt Mao Trạch Đông và Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun



Trận chiến kéo dài một tuần lễ : Toàn bộ Sư đoàn Thanh niên cộng sản Mác Lê Nin , Sư đoàn 34, Trung đoàn 18 của Đệ Tam Quân Đoàn và Đệ Bát Quân Đoàn, Tổng cộng hơn 70 chục ngàn quân của Hồng quân Trung Hoa , đầu hàng hay bị tiêu diệt 100%. ....2 Tướng Đức- Do Thái : Tư lệnh Đệ Tam Quân đoàn và Đệ Bát Quân đoàn tử trận bên bờ sông ......

**Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun còn trong tay không đến 20 chục ngàn quân ...

Lúc này tàn quân còn khoảng 16 ngàn quân đã qua được bờ sông . Đại tá Lâm Bưu 25 tuổi đề nghị Đại tướng Đức -Do Thái Otto Braun kế hoạch mới để cứu vãn 16 ngàn hồng quân Trung Hoa khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn. 
Loại bỏ kế hoạch tiến thẳng 250 dặm nữa về phía bắc, vượt đến Hồ Nam quê hương của Chủ tịch Mao để tới căn cứ của Sứ quân quân phiệt Tướng Hạ Long đang lẩn trốn vợ chồng Tưởng Giới Thạch ! Chuyển hướng Tiến về về căn cứ của Sứ quân quân phiệt Trương Quốc Ðào tại phía bắc Tứ Xuyên, một căn cứ an toàn khác, xa hơn nhiều nhưng bảo đảm được sự sống còn của Tàn quân .

Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun đồng ý ra lệnh :
Đốt bỏ những tài liệu văn khố đang mang theo, những vũ khí thặng dư, để số tàn quân Hồng quân Trung Hoa sống sót thành một lực lượng nhẹ nhàng, hoạt động mau lẹ, tiến quân linh động hơn.

Đại tướng Đức -Do Thái : Otto Braun thăng cấp Đại tá Lâm Bưu lên Thiếu tướng Tư lệnh 6,000 quân Tiên phong tiến đến Đại Tuyết Sơn cao hơn 16.000 feet, ( 5.333 mét ) quanh năm tuyết lạnh.