Tuesday, October 23, 2012

DO THÁI: HÀNH TRÌNH CỦA MỘT DÂN TỘC


DO THÁI: HÀNH TRÌNH CỦA MỘT DÂN TỘC

Nguyễn Ước

Chúa là mục tử tôi, tôi không mong muốn gì hơn,

Ngài khiến tôi nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh,

Ngài dẫn tôi đi bên mặt nước yên tĩnh

Ngài khôi phục linh hồn tôi

Ngài dẫn tôi đi trên đường công chính vì danh ngài

Dù có bước qua thung lũng bóng tối sự chết

tôi cũng không sợ cái ác vì ngài đang ở với tôi.

Những câu thơ ấy trong một bài Thánh vịnh của David cách đây ba ngàn năm đã đi theo dân tộc Do Thái khắp mọi nẻo đường thế giới. Chúng được cất lên trong nhà riêng, nơi hội đường, trên đồng cỏ, trong tiếng gươm dáo chiến trận hay hoan ca lễ hội, trong các đợt bị bách hại và giữa các trại tập trung chết chóc nhất. Chúng là niềm trông cậy, nỗi hy vọng và sức mạnh tâm linh, cốt lõi của một dân tộc lưu lạc.

Cuộc hành trình của dân tộc Do Thái phải chăng cũng biểu tượng cho cuộc lữ hành của loài người nơi trần thế, với những kiên định và dao động, trí tuệ và vô minh, thuần khiết và pha tạp, thực tiễn và thăng hoa, ngã gục và hồi phục, v.v. tới độ khó có thể trả lời câu hỏi ai quả thật là người Do Thái, cũng như kẻ nào quả thật là con người chân chính.

Giao ước với Abraham

Trận lụt Đại hồng thủy vừa dứt. Đất đai vừa khô ráo. Con thuyền Noah hạ xuống trên đỉnh núi Ararat với ba người con trai của ông, trong đó có Sem, kẻ sau này đứng đầu chủng tộc Semite bao gồm Do Thái, A Rập, Assyria, Phoenicia. Abraham là hậu duệ trực hệ đời thứ mười tính từ Noah, qua Sem, với tên nguyên thủy là Abram. Ông sống vào khoảng 4.000 trước đây.

Từ Ur, một thành phố ở gần tháp Baben và thờ nữ thần mặt trăng Nanna, (ngày nay thuộc lãnh thổ Iraq), Abram với vợ là Sarah theo thân phụ là Terah với em là Nahor, đi dọc theo sông Euphrates, dự tính vào Canaan nhưng rồi lại trở qua phương bắc, định cư ở một nơi có tên là Haran trong khu vực Padan-aram. Tại đây, năm 75 tuổi, Abram nghe tiếng Thượng đế gọi mình: "Này Abram, hãy đi khỏi xứ này, khỏi họ hàng của ngươi và nhà của cha ngươi. Hãy tới một vùng đất sẽ được ta chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và làm cho tên của ngươi trở thành lớn lao. Qua ngươi, hết thảy các dân tộc trên thế gian sẽ được chúc phúc".

Không chút ngần ngại, Abram lại mang theo vợ Sarah và cháu trai Lot cùng toàn thể gia nhân và súc vật lên đường đi Canaan, một vùng đất từ bờ sông Jordan tới biển Địa trung hải. Theo Kinh thánh, đó là một vùng đất đầy sữa và mật ong. Ngày nay, nhìn qua phim ảnh và so sánh với đất đai màu mỡ của Việt Nam, ta chỉ thấy miền đất hứa ấy phần nhiều là đồng khô cỏ cháy, hoang mạc với các bụi lùm thưa thớt chỉ cao ngang đầu gối, ít cây cao bóng cả và thiếu các nguồn nước. Nhưng có lẽ đối với dân du mục, thì đây là vùng đất phì nhiêu bát ngát! Hoặc giả, với điều kiện sinh thái của bốn ngàn năm trước, đây từng là vùng đất tốt tươi như thế.

Tới năm Abram 90 tuổi, Thượng đế còn nói với ông thêm lần nữa: "Ta là Thiên Chúa toàn năng, và ta lập giao ước với ngươi. Ngươi là kẻ trung thành và hết sức phục vụ ta; và ngươi sẽ là cha của nhiều dân tộc. Từ con cái của ngươi và của con cái ngươi sẽ xuất hiện những người vĩ đại và những vua vĩ đại, và hết thảy đất Canaan sẽ mãi mãi là của chúng." Cùng với giao ước đó, Thượng đế đưa ra một dấu hiệu: các con trai trong dòng tộc Abraham phải chịu cắt da qui đầu, tức phép cắt bì, tám ngày sau khi chào đời, như một cách tỏ cho thấy bản thân chúng chấp nhận giao kèo.

Kể từ lúc đó, Abram (người cha tôn quí), mang tên mới là Abraham (người cha của hằng hà sa số), tuyệt đối đi theo Đấng Thiêng liêng. Ngài là Thượng đế duy nhất, độc nhất, tối cao và đại đồng. Một Thượng đế tạo dựng vạn vật và chúa tể vũ trụ. Ngài là khởi nguyên và cùng đích của lịch sử. Trong cuộc sáng tạo đang tiếp diễn ngày càng tốt đẹp do ngài và vì ngài, mọi sự phát xuất từ ngài và trở về trong ngài. Ngài là tác nhân và điều hướng mọi biến cố. Một Thượng đế rất nghiêm khắc khi con người bất tuân lời ngài và rất nhân từ khi con người vâng theo mệnh lệnh ngài.

Bước đầu tiên Thượng đế thể hiện giao ước là ban cho Abraham đứa con trai dòng chính là Isaac khi Sarah đã 90 tuổi và Abraham 100 tuổi. Trước đó, ngài còn ban cho Abraham một đứa con trai với nữ tì Ai Cập Haggar, tên là Ishmael. Về sau Haggar không chịu nổi sự hà khắc của Sarah nên bồng con ra ở vùng sa mạc, và Ishmael trở thành tổ phụ của người A Rập mạnh bạo kiên cường.

Ý nghĩa của giao ước

Thời cổ đại, tại Lưỡng hà địa (Mesopotamia), có nhiều tín ngưỡng của con người, tin vào các thần linh mang tính thiên nhiên như mưa gió sấm sét tinh tú hay phồn thực của mùa màng và sinh nở, mang hình thức bái lạy ngẫu tượng. Bên cạnh đó còn có những người có niềm tin độc thần, nhưng đối với Abraham, ông xem tín ngưỡng mình đang theo không phải là tôn giáo của con người lập nên, mà là tôn giáo của Thượng đế ban cho. Thượng đế của Abraham và giao ước của ngài đưa ra cho ông có tính độc nhất vô nhị, và nó hình thành tư duy trong suốt lịch sử mấy nghìn năm sau đó của những người xem ông là tổ phụ. Ba đặc điểm đó là:

1. Phẩm cách của con người.  Nếu Thượng đế tự nguyện tiến hành giao ước này với loài người thì chắc chắn ngài đánh giá loài người rất cao. Thái độ này được biểu lộ trong câu chuyện Abraham đương đầu với dự tính của Thượng đế qua lời tuyên bố của thiên sứ về dự tính hủy diệt thành phố bại hoại Sodom. Khi Abraham lập luận rằng không phải mọi người ở Sodom đều xấu xa, Thượng đế lắng nghe, như thế rõ ràng ngài đánh giá cao dân ngài đã chọn.

2. Trung thành với giao ước. Dân Israel sắp duy trì lòng trung thành tuyệt đối với giao ước. Thượng đế ra lệnh cho Abraham hiến tế con trai Isaac của ông để làm của lễ. Ông chấp hành không chút thắc mắc. Nhưng đúng phút giây ông khai đao, lấy tính mạng đứa con yêu dấu của mình thì vang lên tiếng từ trời cao bảo dừng tay, và xuất hiện con cừu đực chưa thiến trong bụi cây gần đó, để ông tiến dâng thay vào. Lòng tựï nguyện của Abraham dâng lên Thượng đế núm ruột ông yêu quí nhất là một kiểu mẫu của lòng trung thành triệt để mà dân Israel sẽ liều chết noi theo.

3. Thượng đế sắp đặt các biến cố. Thượng đế cho thấy và lặp đi lặp lại nhiều lần việc ngài là đấng hình thành và sắp xếp các biến cố để bảo đảm sự liên tục của dân ngài chọn và để hoàn thành các mục đích của ngài. Thí dụ Thượng đế bảo vệ Josef, con trai của Jacob, bị anh em đem bán sang làm nô lệ ở Ai Cập. Cuối cùng, ngài nâng Josef lên địa vịï cao trọng để ông có khả năng cứu vớt toàn gia đình mình, đầu nguồn của 12 bộ tộc Hebrew.

Tổ phụ Abraham

Thời Abraham, dân Israel chỉ mới được gọi là Hebrew (Híp-ri), nhưng sau Adam, ông được xem là Đại tổ phụ, vì ít nhất bốn lý do. Thứ nhất, ông trực tiếp nhận được giao ước của Thượng đế cho con người, như một định mệnh được an bài cho dòng họ ông sau này thành dân tộc Israel, hiểu như đại biểu cho loài người. Thứ đến, với giao ước đó, ông và hậu duệ có quan hệ rất riêng tư với Thượng đế. Thứ ba, lòng tin tưởng Thượng đế của ông tuyệt đối, qua việc ông không ngần ngại hiến tế đứa con thừa tự độc nhất là Isaac theo yêu cầu của ngài. Thứ tư, lòng yêu thương loài người của ông vô bờ bến khi ông tha thiết và buồn bã cầu khẩn Thượng đế đừng trừng phat hai thành Sodom và Gomorrah. Bốn đặc tính đó đem lại địa vị Tổ phụ cho Abraham trong Do Thái giáo, Kitô giáo và cả trong đạo Islam (Hồi giáo) với tên gọi trong Thiên kinh Qur'an là Ibrahim.

Cuộc lưu đày ở Ai Cập

Sau Isaac, Abraham còn có sáu người con trai khác nhưng giao ước của Thượng đế chỉ với dòng tộc của Isaac. Sau khi cha qua đời lúc 175 tuổi, Isaac sinh đôi Esau và Jacob, nhưng rồi quyền trưởng nam về tay Jacob. Trải qua một đêm Jacob vật lộn với một người lạ, và kế đó, chính kẻ lạ ấy - hình bóng của Thượng đế - chúc phúc và đặt cho ông cái tên Israel, có nghĩa là "Kẻ chiến đấu với Thượng đế". Và kể từ ông, người Hebrew được gọi là dân Israel. Jacob sinh được mười hai con trai, trong đó có đứa con áp út là Josef, như có đề cập ở trên, lưu lạc sang Ai Cập rồi làm tể tướng.

Đất Ai Cập với phù sa sông Nil là vựa lúa của vùng Điạ trung hải và là nơi các dân tộc quanh đó tìm đến khi gặp đói kém, hoạn nạn. Đối với gia tộc Israel cũng thế, gặp lúc đất Canaan mất mùa, thiếu ăn, toàn thể gia tộc kéo sang Ai Cập, với nhân số khoảng 70 người tính luôn cả cha già Jacob, dưới sự bảo trợ của Josef, rồi ở lại theo lời mời của Pharaoh. Trong các tộc trưởng đó, ngoài Josef, mười một người con trai còn lại là Reuven, Simon, Levi, Yhuda, Yissahar, Zevulem, Dan, Gad, Naftali, Asher và Benjamin.

Chuyến đi tị nạn tưởng chỉ một đôi vụ mùa, đâu ngờ kéo dài tới 400 năm. Mười hai anh em thành 12 chi tộc sống ở Goshen, vùng đất phì nhiêu của Ai Cập, thuận tiện cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Thế nhưng thời thế đổi thay, từ 70 người di dân nay phát triển thành hàng trăm ngàn người, quá đông đúc gây thành mối lo ngại nội tại cho người Ai Cập. Về sau, các Pharaoh ngày càng ngược đãi người Israel, bằng nhiều hình thức, bắt họ làm thợ xây cất đền đài cung điện dưới sự đốc công của người Ai Cập, và độc ác nhất là ra lệnh giết con trai vừa lọt lòng của họ để kềm hãm đà gia tăng dân số Israel.

Một bé trai mới lọt lòng từ chi tộc Levi được một công chúa Ai Cập cứu thoát trong thúng điên điển do mẹ nó thả bên bờ sông Nil, có tên là Moses. Hoàng tử Moses lớn lên nơi hoàng cung và dĩ nhiên được giáo dục chu đáo. Trong một lần ông ra ngoài dạo chơi, vì cứu một phu xây dựng người Do Thái nên lỡ tay giết chết tên đốc công Ai Cập. Trở lại làm người Israel và trong khi trốn ở hoang mạc xa ngút ngàn, làm kẻ chăn cừu, Moses nhận được lệnh của Thượng đế phải quay về Ai Cập giải thoát dân Israel đang bị câu thúc. Ông vâng lời. Trong thời gian Moses thuyết phục Pharaoh để cho dân ông lên đường, Thượng đế giáng mười tai hoạ xuống dân Ai Cập mà cái sau cùng là giết chết trưởng nam cũng như những con vật đầu lòng của người Ai Cập, Pharaoh mới chịu để cho dân Israel ra đi. Biến cố vượt thoát ly kỳ này được ghi lại trong Kinh thánh (sách Vượt qua), mang người Israel trực chỉ miền đất Canaan mà Thượng đế đã hứa cho họ từ thời Abraham.

Bốn mươi năm trong hoang mạc

Cuộc lên đường gay cấn của bốn chục vạn người diễn ra trong khoảng thế kỷ 13 trước Công nguyên. Ngày nay, nhìn vào bản đồ, người ta có thể thấy thay vì đi thẳng, đoàn người Israel đã đánh một vòng quanh hoang mạc rồi quanh lui quẩn tới mất đến 40 năm. Thượng đế đích thân hướng dẫn họ khi đi, khi dừng lại, bằng cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm. Sự giáng lâm hữu hình Shekinah ấy còn ở Nơi Cực thánh trong Lều Trướng mà mỗi khi cần thiết, Moses có thể trò chuyện trực tiếp tuy không thấy mặt ngài. Như vậy, lãnh đạo là đích thân Thượng đế, còn Moses chỉ là kẻ điều động.

Bốn mươi năm hành trình là thời kỳ tôi luyện dân Israel. Làm sao một dân tộc quen sống trong cảnh sung túc rồi nô lệ hàng trăm năm có đủ tính cách và bản lãnh để có thể chinh phục vùng đất trước mặt và xây dựng một quốc gia hùng mạnh trong tương lai. Làm sao lời giao ước của Thượng đế, vốn thuần túy là những hứa hẹn, được pháp chế hóa thành luật lệ và thiêng liêng hóa trong ràng buộc mang tính tôn giáo. Để có khả năng tiếp nhận miền đất hứa và xứng đáng làm người chủ của nó, dân Israel phải trải qua cuộc thanh tẩy trong đạo đức cùng thao luyện trong gian khổ. Quả thật, tường trình về chuyến băng ngang sa mạc ghi nhận đầy đủ những tin tưởng và phản bội, trông cậy và sa ngã, chiến đấu và thất bại, v.v. Đối với một số học giả, đó là lời giải thích cho cuộc đi vòng quanh và lẩn quẩn quá dài ngày mà thoạt trông tưởng là lạc lối.

Giao ước với toàn thể dân tộc

Trước đây, Thượng đế giao ước riêng với Abraham còn lần này, ngài giao ước với toàn thể dân tộc Israel qua những lần Moses lên đỉnh núi Sinai để trực tiếp gặp ngài. Từ đỉnh núi trở xuống, Moses chuyển giao cho dân tộc Israel các huấn thị của Thượng đế. Thượng đế lúc này tỏ lộ danh xưng là YHWH, nghĩa là "Ta là kẻ ta là", gọi là Gia-vê (có nơi phiên âm lầm thành Giê-hô-va), vì việc kêu lên Thánh Danh ngài là điều cấm ky nên có thể gọi ngài là Elohim, Thiên Chúa, Thượng đế, v.v. Còn về khuôn mặt thì không một ai thấy ngài mà sống sót, thậm chí cả Moses cũng chỉ thấy được bóng lưng ngài. Và đặc điểm của giao ước lần này cũng rất cụ thể, đó là chừng nào dân ngài chọn còn vâng lời ngài, chừng đó nó còn được ngài che chở. Ngài còn nói rõ, ta là Thượng đế của các ngươi, đấng Thượng đế ghen tương.

Trong lần tái xác nhận và giao ước với Israel này, Thượng đế truyền Mười giới răn, khắc sẵn trong hai tấm bia đá và trao cho Moses. Có thể rút gọn chúng như sau:

1. Ta là Thiên Chúa của các ngươi, đấng mang các ngươi ra khỏi Ai Cập,

và ra khỏi cảnh câu thúc;

2. Ngươi sẽ không có các thần nào khác ngoài ta ra;

3. Ngươi không được vô cớ kêu tên của Thiên Chúa;

4. Hãy nhớ ngày Sabbath và giữ nó làm ngày lễ nghỉ;

5. Ngươi hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi;

6. Ngươi sẽ không giết người;

7. Ngươi sẽ không phạm tội ngoại tình;

8. Ngươi sẽ không ăn cắp;

9. Ngươi sẽ không làm chứng gian dối chống lại người bên cạnh;

10. Ngươi sẽ không tham muốn vợ của người bên cạnh

hay bất cứ cái gì khác của người bên cạnh.

Cùng với Mười giới răn là vô số huấn thị khác của Thượng đế, làm thành bộ kinh Torah (gồm năm cuốn đầu của Kinh thánh, gọi là Ngũ kinh, Pentateuch) mà người Do Thái tin rằng tác giả của nó là Moses; ông nhận được từ Thượng đế qua ngôn từ trực tiếp và khải thị thiêng liêng. Ngoại trừ phần tường tình về Sáng thế, bộ kinh Torah đưa ra qui định lề luật từ việc nhỏ nhất về vệ sinh thân thể tới cúng tế, từ hôn nhân tới ăn uống kiêng khem (kosher), các lễ lạc từ ngày Sabbath hàng tuần tới các ngày lễ trọng thể và bán trọng thể quanh năm, v.v

Tất cả gồm 613 giới luật với chỉ dẫn chi tiết về cách phải làm và cách không được làm. 613 giới luật đó bao gồm 248 phát biểu tích cực về cách phải làm tương ứng với 248 bộ phận của thân thể. Và 365 lời phát biểu về không nên làm, tương ứng với 365 ngày một năm theo lịch Do Thái trên cơ sở âm lịch. Vậng lời Thượng đế tức là tuân giữ lề luật của ngài. Người Do Thái còn tin rằng bên cạnh kinh Torah được Moses công khai truyền cho dân Israel, còn có kinh Torah được Moses truyền riêng cho các đệ tử thân tín, và đó chính là phần huyền học, hay gọi bí pháp Kabbalah.

Thượng đế, kinh Torah và Israel

Kể từ đó, Thượng đế, kinh Torah và Israel là ba thành tố bất phân ly trong đời sống của người Do Thái.

Trên đường lữ thứ nơi hoang mạc, cứ mỗi thời kỳ dừng chân, dân Israel dựng Lều Trướng. Tại Nơi Cực thánh, họ đặt Hòm Giao ước trong đó đựng hai bia đá ghi Mười giới răn. Lều Trướng bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm, chung quanh là lều trại của 12 bộ tộc. Thượng đế hiện thân thành Shekinah, trong đám mây, cột lửa dẫn đường đi hay dừng, và quầng sáng trên Lều Trướng. Trên đường đoàn người tìm lại miền đất hứa, Thượng đế ban thức ăn, nước uống, thẳng tay trừng trị khi có người phạm tội hay khi dân chúng dao động, đồng thời phù hộ khi phải giao chiến với các bộ tộc bản địa thù nghịch.

Lều Trướng là tiền thân của Đền thánh Jerusalem mà sau này, Thượng đế cũng ngự ở Nơi Cực thánh, căn phòng nội điện mà mỗi năm thượng tế chỉ được vào một lần và chỉ được gọi Thánh Danh ngài một lần. Hai ngàn năm sau, khi định chế hội đường thành tâm điểm của sinh hoạt cộng đoàn Do Thái giáo, hội đường nào cũng có một Hòm thánh trong đó đựng cuộn kinh Torah viết trên giấy da. Và tuần nào cũng lấy ra đọc một trích đoạn cho cộng đoàn nghe trong ngày Sabbath.

Vào miền đất hứa

Suốt bốn mươi năm ấy, không phải đoàn người lữ thứ hoàn toàn quanh quẩn mịt mù trong sa mạc. Đã có lần họ tới được bên rìa miền đất hứa Canaan, nhìn thấy nó, và Moses cử một đoàn thám sát vào thăm dò nó. Nhưng lần đó, dân Israel mới chỉ như con người thoáng thấy chân lý rồi lại bị trôi giạt giữa dòng đời. Sau những gian nan khi tiến khi lùi gần như bất tận, đoàn người lên tới khoảng sáu chục vạn người và chuyển sang một thế hệ mới, với não trạng mới và tính cách mới. Họ trở nên kỷ luật hơn, thiện chiến hơn, đạo đức hơn, và chỉ thế hệ mới này mới đủ tiêu chuẩn vào miền đất hứa. Thậm chí bản thân Moses cũng chỉ được lên núi cao đưa mắt nhìn nó trước khi nhục thể phải nằm lại tại Moab, dưới một nấm mồ không bia mộ ở thung lũng giáp ranh với Canaan.

Mang theo Lều Trướng và Hòm bia Giao ước trong đó đựng Mười giới răn, và mang theo lời truyền khẩu về Lề luật mà ba trăm năm sau ghi lại thành bộ kinh Torah, đoàn người vượt sông Jordan vào vùng đất hứa Canaan. Trong khi vùng đất chung quanh có vua chúa, thờ phượng nhiều thần linh bản địa bằng ngẫu tượng, theo tôn giáo tự nhiên, thì chỉ một mình dân Israel thờ phượng Thượng đế, biến niềm tin thành giới luật và thoát ra ngoài sự sùng bái quỉ thần, mê tín dị đoan.

Miền đất hứa ấy được chia vùng cho 12 bộ tộc sinh sống, còn Lều Trướng với Hòm bia Giao ước đặt tại Shiloh. Từ khoảng năm 1200 cho tới năm 1047, các bộ tộc Israel sống canh nông và chăn nuôi, không có chính quyền trung ường và được phân xử bởi các thủ lãnh, còn gọi là thẩm phán. Thủ lãnh là người được lấy từ các kỳ mục vị vọng, có trách nhiệm đặc biệt phân xử về đất đai, hôn nhân và các sự việc liên quan tới lề luật. Đồng thời, họ còn lãnh đạo những cuộc hành quân phối hợp giữa các bộ tộc trong những trận đánh với các dân tộc chung quanh, đặc biệt với quân Philistine, tiền thân của người Palestine sau này. Người sau cùng và nổi tiếng nhất là thủ lãnh Samson, thuộc bộ tộc Dan, nhà dũng sĩ vô địch đã dùng cái chết để chuộc tội sa ngã nữ sắc của mình. Thời kỳ này được ghi lại trong sách Thủ lãnh (còn được dịch sang tiếng Việt là Thẩm phán).

Thời kỳ của hoàng đế

Tình trạng tranh chấp và chia rẽ giữa các bộ tộc cùng với xung đột với các dân tộc bản địa chung quanh dần dà vượt ngoài tầm giải quyết của thủ lãnh. Đã tới lúc người Israel đòi phải có vua, bất chấp lời cảnh cáo của Thượng tế và Ngôn sứ Samuel về một tương lai sẽ đánh mất quyền làm chủ sinh mạng và của cải vào tay đức vua, đồng thời sẽ than khóc vì mình đã chọn loại thủ lãnh đó. Cuối cùng Thượng đế đành để cho Samuel chọn Saul, người thuộc bộ tộc Benjamin lên làm vua.

Saul là một hoàng đế dũng mãnh, bảo vệ được dân chúng và đặt nền móng cho công cuộc lập quốc. Nhưng quyền lực trần thế biến ông thành người điên loạn. Ông hãm hại kẻ trung lương là David, ân nhân của ông và cũng là người được thiên định kế vị ông. Cực điểm hư hoại của Saul là đánh mất niềm tin vào Thượng đế, vi phạm điều ngài cấm triệt để bằng việc nhờ đồng bóng triệu hồn Samuel để ông hỏi về hậu vận của mình. Cuối cùng, Saul tự sát ngoài chiến trường khi phải đối đầu với quân Philistine. Saul làm vua từ năm 1047 tới 1010 trước CN.

Kế tục Saul là David, thuộc bộ tộc Judah và xuất thân mục đồng, là vị vua vĩ đại nhất lịch sử Israel. Qua David, Thượng đế hoàn thành lời hứa với Abraham, biến Israel thành một dân tộc vĩ đại. Làm vua Judah năm 1010 và hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước Israel năm 1.003, David là vị vua anh hùng, mở đầu cho Nhà David với Ngôi sao David biểu tượng cho dân tộc Do Thái, gồm hai hình tam giác đều đặt ngược nhau và đồng tâm; nối các điểm tiếp giáp thì sẽ cùng với các mũi nhọn làm thành 12 tam giác nhỏ, tiêu biểu cho 12 bộ tộc. Thêm nữa, David được qui là tác giả của sách Thánh vịnh, dùng làm cốt lõi cho kinh nguyện Do Thái giáo suốt mấy ngàn năm nay. Đặt Zadok làm Thượng tế, nhà vua bắt đầu chuẩn bị xây đựng Đền thờ Jerusalem, thay thế Lều Trướng để làm tâm điểm cho Do Thái giáo và biến kinh đô Jerusalem thành Thánh thánh của dân tộc hay còn gọi là Thành David.

David qua đời năm 970 trước CN, nối ngôi là hoàng tử Solomon, kẻ tiêu biểu cho minh triết Israel và được Thượng đế ban cho đầy đủ khôn ngoan. Thời đại Salomon thịnh trị, thu phục được lòng tin của lân bang, mở rộng ngoại thương tới các xứ xa. Về mặt kinh điển, kinh Torah được ghi thành văn bản dưới triều Solomon. Về mặt cơ sở phụng vụ, Solomon nối tiếp ý nguyện của phụ hoàng, năm 960 khởi công xây lên Đền thờ Jerusalem, và rồi nó được xem là kỳ quan đệ nhất của thế giới thuở đó.

Đền thờ Jerusalem là một quần thể mà tòa nhà chính dài khoảng 28 thước, rộng 9 thước, cao 13 thước với các cột đồng khổng lồ được trang trí tinh xảo bằng hoa văn cây thạch lựu và hoa huệ; những hành lang cao và rộng bọc quanh toà nhà chính; các bức tường khổng lồ bằng gỗ cây bách hương hùng vĩ của Lebanon, tất cả đều dát vàng lóng lánh. Cây bách hương không có mắt gỗ, không bị mọt và không mục, thường được nói đến trong Kinh thánh, là loại gỗ xây dựng tốt nhất.

Tòa nhà lộng lẫy ấy, nơi thờ tự đầu tiên của một dân tộc du mục đã chuyển qua lối sống định cư mang lại uy danh mới cho vương quốc, hẳn phải phản ánh khả năng kiến trúc của những dân tộc có nhiều kinh nghiệm xây dựng hơn dân Do Thái thuở ấy. Thợ khắc gỗ người Phoenicia, tài cán nhất đương thời, được thuê sang để thực hiện các phù điêu. Thợ chuyên môn từ thành phố Tir đẽo các khuôn đúc vật bằng đồng. Thêm vào đó là các thợ thủ công và sự tiếp tay của lực lượng lao động gồm ít nhất ba chục ngàn người Israel. Công trình vô tiền khoáng hậu ấy cần thời gian tới bảy năm mới hoàn tất.

Bằng sự phong phú vật liệu hơn là tính cách riêng biệt của mô hình, Solomon ra sức ganh đua với những gì hoành tráng nhất trong đền đài ở các xứ khác. Những con cừu, vật chứa hương trầm, kẹp gắp lửa, chảo nấu và những đồ dùng trong lễ thượng hiến tế vật đều được làm bằng vàng. "Biển" nước kỳ bí làm bằng đồng nguyên chất dùng cho nghi lễ tẩy uế, chứa gần 40.000 lít nước và cân nặng khoảng 30 tấn. Bên trong Nơi hậu tẩm Cực Thánh mà duy nhất vị thượng tế được vào chỉ một ngày trong năm, có hai thần phẩm có cánh Cherubim to lớn, làm bằng gỗ ô-liu và thếp vàng, đứng canh giữ Hòm bia Giao ước.

Đối với các tín đồ, vẻ nguy nga và lộng lẫy của Đền thờ và nỗ lực tối thượng xây lên một tòa nhà như thế không nhằm làm bằng chứng cho vinh quang trần thế của dân tộc mình mà chỉ để tương xứng với sự hiện diện của Thượng đế, Đấng Chúa tể Vũ trụ, Đấng đã đem dân ngài chọn vào đất hứa và đã giúp họ đánh bại các kẻ thù. Cho tới mấy ngàn năm sau, Đền thánh của Solomon vẫn sáng lung linh trong tâm tưởng và Thành thánh Jerusalem vẫn là linh địa của người Thiên Chúa giáo.

Thế nhưng, cuối cùng, quyền lực vẫn làm băng hoại được Solomon. Ông mất bảy năm xây cất Jerusalem nhưng mất 30 năm để xây dựng các cung điện của mình. Dân chúng phải chịu sưu cao thuế năng cho những phí tổn của quốc gia. Nhà vua có một hậu cung với 700 hoàng hậu, 300 phi tần trong đó nhiều phụ nữ ngoại giáo, và ông dựng các tế đàn ở vùng đồi núi để họ cúng các thần ngoại giáo của họ.

Solomon vị vua uy hùng cuối cùng của Israel, qua đời năm 931 tr.CN, trao lại vương quyền cho con là Rehoboam với vương quốc trên đà hổn loạn. Nói chung, thời đại David-Salomon là thời kỳ huy hoàng nhất của Israel. Nó là đối tượng vĩnh viễn của hoài niệm đầy tự hào và mơ ước nóng bỏng của dân Do Thái từ mấy ngàn năm nay. Và kể từ ngày đất nước chia đôi rồi dân chúng bị lưu đày, nó củng cố thêm hình ảnh Đấng Cứu thế được trông đợi sẽ xuất hiện từ Nhà David để khôi phục vương quyền, cứu độ dân tộc và đem Israel trở lại thời hoàng kim đó.

Chia thành hai vương quốc

Năm 930, Jeroboam, người không thuộc hoàng tộc David, lãnh đạo cuộc nổi loạn của mười bộ tộc phương bắc làm thành nước Israel. Chỉ còn lại hai bộ tộc Judah và Benjamin trung thành với Nhà David làm thành nước Judah ở phương nam, trong đó có Đền thờ Jerusalem.

Đặt kinh đô tại Samari, Jeroboam muốn xây dựng tại nước Israel của mình một đền thờ ở Bethel thay cho Jerusalem, nhưng với một số biểu tượng ngoại đạo. Và cùng với chúng là các vị vua hậu duệ của ông bái lạy thần linh ngẫu tượng. Đây là thời của các ngôn sứ như Đại ngôn sứ Elijah và vị kế thừa là Elisha, cùng với các ngôn sứ khác như Amos, Hosea, và Jonah.

Tuổi thọ của vương quốc Israel phương bắc chỉ được khoảng 200 năm. Tới năm 720, Israel bị xâm chiếm bởi Đế quốc Assyria, một cường quốc ở vùng Lưỡng hà, tọa lạc tại thượng nguồn sông Tigris với thủ đô là Niniveh. Mười bộ tộc phương bắc bị lưu đày tứ tán, trở thành mười bộ tộc thất lạc đâu đó mà có lẽ sẽ không bao giờ quay về đất Canaan, nay là Palestine. Có ít nhất bốn nhóm dân tộc ở Ấn Độ, và các dân tộc ở châu Phi, Trung Á, xưng mình là hậu duệ của 10 bộ tộc này. Trong đó có cả người Khương sống ở Cam Túc, Thanh Hải, từng nổi loạn chống lại nhà Đông Hán năm 110 s sau CN, và một số người Hoa tại Khai Phong ở Hồ Nam.

Vương quốc miền nam Judah kéo dài tuổi thọ tới năm 587 rồi cũng bị xâm chiếm bởi Babylon, một đế quốc mới, phát xuất từ vùng Lưỡng Hà địa (nay là Iraq). Đền thờ Jerusalem sau bao nhiêu lần bị các vua Judah phương nam rút tỉa đề cống nạp, và bị các toán quân Assyria cướp phá khi mượn đường hành quân, cuối cùng nó bị san thành bình địa bởi đạo quân xâm lăng người Babylon. Tại miền nam, đây cũng là thời kỳ của các ngôn sứ như Isaiah, Jeremiah, Zechariah, Habbakkuk, Joel, Micah, Obadiah và Zephaniah .

Có thể nói đây là thời đại của các ngôn sứ. Trong hoàn cảnh dân tộc Israel phân hóa, đất nước chia đôi, các vua tiếp theo Solomon, cả nam lẫn bắc, đánh mất sự tôn trọng của dân chúng thì tiếng nói của các ngôn sứ cất lên dõng dạc. Các ngôn sứ trở thành thủ lãnh thật sự của dân chúng. Họ tạo niềm hứng khởi và nếu cần thì cảnh giác, phê phán dân chúng. Thậm chí nhiều ngôn sứ chỉ trích nhà vua, và họ sẵn sàng chấp nhận hậu quả nguy hiểm của hành động đó. Ngôn sứ nói lên tiếng nói của Thượng đế, tố cáo sự dữ, báo trước thảm hoạ sắp xảy ra, và sẵn sàng đổ máu mình để làm chứng cho lời mình nói.

Đây cũng là thời kỳ Elijah với ngọn lửa nhiệt tình, trấn áp việc thờ phượng tà thần, và cứu khổn phò nguy cho người bị thiên tai lẫn nhân tai. Theo gót ông là ngôn sứ được ông chân truyền Elisha. Ngôn sứ Isaiah mô tả kỹ lưỡng về Đấng Cứu thế, xuất thân từ Nhà David, sẽ giáng lâm để giải phóng dân tộc Israel, đoàn kết các dân tộc trên thế giới trong hòa bình, và sẽ phân xử trong công bằng và chính đáng cho đến muôn đời.

Cuộc lưu đày và hồi hương

Khi các đế quốc lần lượt nổi lên thì vùng đất Israel là địa điểm chiến lược. Nó trở thành một hành lang nằm giữa biển và sa mạc, cung cấp cho đoàn thương buôn và đạo quân chinh phục một con đường độc nhất có sinh khí xuyên giữa các quốc gia rộng lớn và hùng mạnh giáp ranh nó. Thế kỷ này nối tiếp thế kỷ kia, hàng ngàn năm này sang ngàn năm khác, những cuộc diễn binh lũ lượt đi qua nó: các binh đội của vua Ai Cập, những đoàn bộ hành A Rập; xe trận từ Assyria và kỵ binh từ Babylon, sau này người Ba Tư với Cyrus, Macedonia với Đại đế Alexander và rồi tới lượt người Hi Lạp, La Mã, Parthia.

Nhưng những đợt sóng quét dân tộc Israel một phần sẽ dâng lên về sau. Lúc này, và có lẽ cũng giống như mọi thời, muốn tiêu diệt một dân tộc, phải phá hoại tôn giáo, cái làm thành sức mạnh tâm linh và định chuẩn đạo đức của nó. Vì chỉ những người đạo cao đức trọng, tâm linh phong phú mới có khả năng làm anh hùng liệt nữ, và một dân tộc dù khốn khó mà có đạo nghĩa vẫn giữ được bản lãnh quật cường. Trường hợp này tuyệt đối đúng với người Do Thái. Đền thờ Jerusalem bị phá hủy. Toàn thể dân chúng, kể cả vua của Judah, bị bắt sang sống lưu đày ở kinh đô Babylon. Và kể từ đó, họ được gọi là người Judah (Jew/Do Thái), để phân biệt với các sắc dân khác cũng ở trong Đế quốc Babylon mênh mông.

Cuộc lưu đày này tuy chỉ kéo chưa tới năm chục năm, nhưng để lại những dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Do Thái tha hương và trong văn học của họ. Ta đọc thấy những lời như sau:

Cô đơn biết bao ngồi chốn thành đô một thuở đông người

Giống biết mấy quả phụ kia, thuở cao vời giữa các dân tộc

Và công chúa giữa các tỉnh thành

Nàng hôm nay tên lệ thuộc

Đêm về thảm thiết khóc than nước mắt đẫm má

Chẳng ai an ủi nàng

Trong những kẻ nàng yêu.

Và họ cũng hát lên những bài ca ai oán cho thân phận mình cam chịu cảnh lưu đày giữa chốn kinh thành hoa lệ Babylon:

Bên những dòng sông Babylon

Nơi tôi ngồi xuống, ôi tôi khóc

Khi nhớ về Zion.

Nhưng Hoàng đế Nebuchadnezzar (k. 634 - 562 tr.CN) cũng không phải là người hoàn toàn khe khắt với người Do Thái. Và có lẽ trong thời gian này bắt đầu xuất hiện hình thức Hội đường - trung tâm thờ phượng và sinh hoạt tinh thần của cộng đoàn Do Thái giáo. Một khuôn mặt lưu đày hàng đầu là Ngôn sứ Ezechiel với những tiên báo về sự hủy diệt kẻ thù của Judah bằng lửa và động đất, việc hồi hương Israel và bằng giọng nói mang tính cứu thế, về sự tái lâm của vua David và sự phục hưng vương quốc.

Về từ chốn giam cầm

Rồi gió thịnh suy trần gian cũng phải đổi chiều. Bánh xe trận của đế quốc Ba Tư nghiền nát đế quốc Babylon. Năm 539 trước CN, Đại đế Cyrus của Ba Tư cho người Do Thái hồi hương. Đoàn người mà phần nhiều là người nghèo, vượt sa mạc trở về một quê hương đang nằm điêu tàn quá bờ bên kia. Người giàu ở lại Babylon mà về sau sẽ tiếp nhận thêm một đợt lưu vong mới và có những đóng góp lớn lao về giáo thuyết.

Công trình đầu tiên khi về lại quê cũ là xây dựng lại Đền thánh Jerusalem vì từ những ngày bên bờ sông Babylon, họ đã đau đáu với nỗi niềm "Ta mà quên ngươi, hỡi Jerusalem, thì tay phải ta cũng hãy quên ta." Viên đá đầu tiên được đặt xuống cùng với sự yễm trợ tinh thần lẫn vật chất của Hoàng đế Ba Tư. Hiện nay, ta không còn giữ được sự mô tả cụ thể về Đền thờ thứ hai này, nhưng chắc chắn nó không hoành tráng bằng Đền thờ thứ nhất. Và năm trăm năm sau, nó bị Đại đế Herod phá để xây dựng Đền thờ Jerusalem thứ ba mà theo cao vọng của vị vua cải giáo là phải làm sao cho nguy nga hơn Đền thờ của Solomon.

Thế nhưng chính những sinh hoạt tôn giáo diễn ra trong Đền thờ mới quan trọng. Việc cúng tế mỗi ngày một con cừu vẫn diễn ra hằøng ngày, suốt hơn năm trăm năm, kể cả trong thời gian Đại đế Herod xây dựng Đền thờ thứ ba. Quanh năm, lễ Vượt qua và lễ Ngũ Tuần vẫn tấp nập người hành hương. Đền thờ vẫn là tâm điểm của dân tộc Do Thái với cuộc sống kính sợ Thượng đế, từ tâm với người có nhu cầu và nghiêm ngặt giữ cho hết các lề luật chi li và nhiêu khê được qui định trong kinh Torah. Kinh này cũng được Ngôn sứ Ezra san định lại, với nội dung có lẽ hoàn toàn giống với bản ngày nay chúng ta đang có.

Sinh hoạt Đền thờ và tôn giáo cũng làm vững thêm tư thế của giới tư tế, có tính kế tục mà bây giờ được gọi là Sadducee, hậu duệ của Thượng tế Zadok thời David. Qua hình ảnh của Thượng tế cùng với hệ thống một tập đoàn tư tế đông đúc trên khắp đất nước, họ là những người lãnh đạo dân tộc. Vào thế kỷ cuối trước Công nguyên, trong một lễ hội như Vượt qua, tại Đền thờ Jerusalem có khoảng 17.000 tư tế và người Levi lo phục dịch Đền thờ. Bên cạnh Thượng tế và khoảng 200 chánh tư tế, có khoảng 7.200 tư tế thường và 9.600 người Levi. Quanh năm, các tư tế ở khắp nước đều theo từng lộ mà được cắt cử luân phiên về phụ trách việc tế lễ hằng ngày tại Đền thờ.

Sinh hoạt tôn giáo thường nhật và kinh sách làm sản sinh người Pharisee (nghĩa là kẻ chống đối) gồm các học giả, các thầy cả mà ngày càng đối lập với người Sadducee, giới tư tế có quan điểm bảo thủ và là đầu mối của các bất hòa tôn giáo và xung khắc trong các vấn đề nội bộ của người Do Thái. Vào đầu Công nguyên, tại Jerusalem có hai trường phái Pharisee nổi tiếng, một là của Đại thầy cả Shammai, hai là của Đại thầy cả Hillel. Bên cạnh, còn có người Essene khổ hạnh tại tu viện Qu'ram, mà gần hai ngàn năm sau, lôi cuốn sự chú ý của giới học giả nhờ các tài liệu Kinh thánh của họ để lại trong các hủ gốm, mãi tới năm 1947 mới tình cờ phát hiện, gọi là Các cuộn sách Biển Chết (Dead Sea Scrolls).

Lệ thuộc các đế quốc

Kể cả thời hoàng kim của Nhà David, Israel chưa bao giờ có một quân đội hùng mạnh đủ sức khống chế lân bang. Từ Ba Tư trở về, vùng đất Judea, mà về sau gọi là Palestine (đất của người Philistine), trở thành thuộc địa và hành lang chiến trận cho các đế quốc. Nền cai trị của Ba Tư sụp đổ khi bánh xe trận của Alexander Đại đế lăn qua Palestine năm 332, và mang theo tôn giáo cùng văn hóa Hi Lạp và mở đường cho nền văn hóa ấy phát triển rực rỡ với các thành phố mang sắc thái của nó mọc lên khắp Địa trung hải. Sau cái chết của vị Đại đế trẻ tuổi ấy, Judea lệ thuộc một cận tướng của ông là Ptolemy, lúc này xưng vương tại Ai Cập. Còn cận thần thứ hai là Seleucus cũng xưng vương tại Syria.

Trong khung cảnh đó, mỗi xứ sở thuộc địa được cho một phạm vi quyền hành tự quản rộng rãi. Do đó tại Judea - tức là xứ Palestine lúc ấy - vị Thượng tế hành xử như một ông vua bình thường. Ngoài nhiệm vụ làm thủ lãnh tôn giáo của dân tộc mình, ông còn là chủ tịch của Hội đồng Công nghị gồm các trưởng lão (kỳ mục) và là người giám sát các vấn đề an ninh, cung cấp nước và thu thuế. Người Do Thái được hưởng quyền tự do thờ phượng và quyền tuân giữ lề luật của tổ tiên khi thích hợp.

Dù trực thuộc Ptolemy ở Ai Cập hay tổng trấn ở Syria và rồi vua Syria, có lẽ người Do Thái cũng chỉ muốn được bình yên để thờ phượng và sinh sống. Họ chỉ có phản ứng mạnh khi tín ngưỡng Do Thái giáo và đặc biệt Đền thờ Jerusalem bị xâm phạm hay làm ô uế.

Sách nhiễu tôn giáo và nổi lọan

Căn cứ trên nền tảng Do Thái giáo gọi là kosher thì có loại thịt và cá bị cấm ăn, Thí dụ thịt heo và loài giáp xác (động vật không có xương sống, có vỏ cứng ở ngoài cơ thể, thở bằng mang như tôm, cua, vv.), bị coi là "không tinh khiết". Cũng thế, không phải bất cứ con vật nào cũng có thể bị giết, chủ yếu chỉ để ăn thịt. Và cấm toàn bộ máu, vì như đã phát biểu trong sách Đệ nhị luật 12:33 rằng "Máu là sự sống", và phải được coi là thiêng liêng, dù ở trong loài vật. Thậm chí bát dĩa nồi niêu soong chão cũng chưa từng đựng các thực phẩm bị cấm.

Khi người Syria ra lệnh cấm người Do Thái học kinh Torah, cấm giữ ngày Sabbath và cắt bì, bắt ăn thị heo và dùng máu heo rắc lên Đền thờ Jerusalem, và hơn nữa, còn dùng nơi đó để tế thần Zeus, người Do Thái thà chết còn hơn chấp nhận. Năm 167 tr.CN, tại tây bắc Jerusalem, lính của nhà vua Xyria tập trung dân chúng lại yêu cầu tư tế Mattathias làm lễ cúng một con heo. Sự việc ấy đưa tới vụ khởi nghĩa của dòng họ Maccabea. Nghĩa binh chiếm được và tẩy uế Đền thờ Jerusalem năm 164, mở đầu triều đại Hasmonea thái bình thịnh trị, kéo dài tới 80 năm.

Khi tướng Pompey (106-48 tr.CN) đánh bại Nhà Maccabea vào năm 63 tr.CN, ông nổi tính hiếu kỳ, đi cùng tùy tùng vào Nơi Cực thánh mà chỉ có Thượng tế mỗi năm mới được vào một lần. Pompey không thấy gì hết ngoài các bức tường trống rỗng. Tuy sau đó, ông cho phép các tư tế tẩy uế, nhưng với người Do Thái, đó là sự sỉ nhục tột độ và từ đó, tên của Pompey đi liền với sự báng bổ cực kỳ.

Dưới thời cai trị của Tổng trấn La Mã Gessius Florus, năm 66 sau CN, người Hi Lạp cử hành lễ cúng tế tà giáo trên lối vào của một hội đường khiến một số người Do Thái phản đối rồi bị bắt giữ. Tiếp đến, Florus đột nhập Đền thờ Jerusalem lấy đi một số tiền rất lớn. Tới khi người Do Thái phản đối, ông cho lính tàn sát làm số người tử nạn lên tới khoảng 3.600 người. Từ đó bùng lên cuộc khởi nghĩa toàn quốc của người Do Thái.

Cuộc khởi nghĩa kéo dài bốn năm. Tới năm 70 sau CN, 25.000 nghĩa quân trấn thủ Jerusalem thất trận. Đền thờ thứ ba do Đại đế Herod xây lên bị đốt cháy và san bằng. Toàn kinh thành cũng bị san bằng "không một hòn đá nào còn nằm trên hòn đá nào". Kết thúc là cái chết bi tráng của 960 đàn ông đàn bà và trẻ con tự sát ở pháo đài Masada, năm 73 sau CN, sau mấy năm tử thủ.

Cuộc lưu lạc của người Do Thái

Trong hơn 2.700 năm, dân Do Thái có nhiều cuộc lưu vong và tản mác. Có thể liệt kê tuần tự như sau:

1. Cuộc lưu đày

Đây là lần tản mác thứ nhất, mang tính lưu vong, sau cuộc thất thủ của vương quốc Israel đưa tới sự thất lạc của mười bộ tộc phương bắc. Kế đó là vương quốc phương nam Judah bị xóa sổ, dân chúng thuộc hai bộ tộc còn lại, bị lưu đày sang Babylon và họ cùng hậu duệ làm thành dân Do Thái cho tới ngày nay. Mười bộ lạc thất lạc để lại nhiều sắc dân sống rải rác ở châu Phi, Ấn và Bắc Trung Hoa; tuy có nơi tự nhận là hậu duệ Do Thái nhưng đã đánh mất bản sắc Do Thái giáo. Hơn bốn vạn người Judah hồi hương, tái thiết Jerusalem để lại một bộ phận ở Babylon, còn có thêm nhiều người ở Ba Tư, tức là Iran ngày nay, mà ta đọc thấy Esther, một sách của Kinh thánh.

2. Vùng tản mác

Thời lệ thuộc Ai Cập, Syria rồi La Mã và các thế kỷ trước và sau Công nguyên, rất đông người Do Thái di dân và sống tản mác tại các thành phố Hi La vùng quanh Địa trung hải. Các cộng đoàn đông đảo nhâát của họ ở Alexandria, Corinth, Ephesus, Antioch, Thessaloniki, Damascus, Philippi, Cyprus, Cyrene, v.v. Những nơi sống đông dân Do Thái nhất là Babylon và Syria, cách riêng tại Antioch và Damascus, với khoảng từ 10.000 tới 18.000 người Do Thái bị tàn sát sau cuộc nổi loạn ở Jerusalem. Tại Ai Cập có khoảng một triệu người Do Thái. Tại thành phố hải cảng Alexandria, họ chiếm một phần tám dân số

Thuở đó, số người Do Thái sống tản mác ở hải ngoại còn đông hơn ở chính quốc. Hằng năm, vào các dịp hành hương cố quốc, đặc biệt vào dịp lễ Ngũ tuầøn, lễ Vượt qua, Thành thánh và Đền thánh Jerusalem tấp nập người Do Thái tứ xứ kéo về. Họ là nguồn tài chính lớn nhất của Jerusalem vì rất hào phóng khi cúng tế và hằng năm mỗi người nam Do Thái dù đang ở xứ nào, cũng phải đóng cho Đền thờ một nửa đồng sekel bạc. Theo Phúc âm Luca, một người Cyrene khi về hành hương đã bị lính La Mã bắt vác cây xà ngang thập tự cho Đức Giêsu Kitô.

Tại Alexandria, vào khoảng thế kỷ 2-3 tr.CN, 72 học giả Do Thái đã hoàn thành cuốn Kinh thánh bằng tiếng Hi Lạp, gọi là bản Bảy mươi (Septuagint). Về sau, trong triết học, nổi bật khuôn mặt của triết gia Philo (20 trCN-50 sCN).

3. Tản mác hai ngàn năm

Đây là cuộc tản mác lớn nhất, đi khắùp thế giới và thê thảm nhất. Không kể số người sống ở ngoài Palestine, khi Jerusalem bị san bằng, theo sử gia Flavius Josephus (37-k.100 s.CN), họ có khoảng 1.100.000 người trong đó có 97.000 người bị bán làm nô lệ. Cho đến nay, người Do Thái trên khắp thế giới có khoảng 16 triệu người, sống ở hơn 50 quốc gia, trong đó Israel chiếm khoảng hơn 6 triệu người. Thật không dễ trong chốc lát trình bày hết những nét chính của cuộc tản mác đại trà suốt 2.000 năm lịch sử này, được gọi là thời Talmud này, nhưng chúng tôi cố gắng đưa ra một số nét chính. Nói chung, đây là hai ngàn năm bị trục xuất rồi lang thang vô tổ quốc khắp thế giới, nên kinh Torah, lề luật được triển khai thêm trong sách Talmud, phong tục tập quán cùng ký ức dân tộc trong văn học dân gian trở thành phương cách quan trọng để lưu giữ bản sắc Do Thái của mình.

Sách Talmud Palestine

Đền thánh Jerusalem bị người La Mã san bằng, kéo theo sự sụp đổ của giới tư tế Saduccee và biến tu viện Qu'ram của người Essene thành nơi hoang phế, nhưng đặc biệt, biến cố ấy làm nổi bật vai trò của hội đường và người Pharisee trong sinh mệnh của Do Thái giáo từ đó cho tới ngày nay. Thoạt đầu, tại Jerusalem, người Do Thái bị cấm rao giảng và thực hành phụng vu, đặc biệt không được giữ ngày Sabbath. Trung tâm tín ngưỡng từ Jerusalem chuyển lên Galilee phương bắc. Tại đây, uy tín của các thầy cả, các nhà thông thái tăng cao, trở nên tâm linh hơn, bác học hơn, và họ thật sự là những nhà lãnh đạo tinh thần cùng là đối tượng cho dân tộc ngưỡng vọng.

Kinh Torah suốt ngàn năm qua được giảng dạy với những bài bình giải, những ý kiến và các thí dụ minh hoạ truyền miệng. Thế nên công việc trước mắt, trong thời buổi trầm luận, là phải ghi những thuyết giảng đó thành văn. Thành quả sưu tập những gì liên quan tới các đề mục vừa kể, đặt nặng phần bình giải lề luật, làm thành Mishnah. Tiếp đến là những minh họa, dụ ngôn, chuyện kể, v.v. làm thành Gemara. Cả hai bộ phận đó hợp lại thành sách Talmud Jerusalem, hay đúng hơn, sách Talmud Palestine. Bên cạnh đó, còn phần văn học dân gian được gom chung với cái tên midrash, trong đó có những mẫu chuyện, lời bàn nhằm triển khai hay bổ sung những chỗ chưa được nói rõ hay triển khai trong kinh Torah.

Sách Talmud Babylonia

Cuộc khởi nghĩa của Bar Kokba (132-135) thất bại đưa tới thiệt hại nghiêm trọng và khôn lường cho người Do Thái ở Palestine. Cùng bị xử tử với thủ lãnh Bar Kokba là nhiều nhà thông thái, trong đó có Đại thầy cả Akiba ben Yosef (Rabbi Akiva), người được xem là kẻ đứng đầu các nhà thông thái và có công đầu trong việc chuẩn bị tập đại thành bản sách Talmud Palestine.

Khoảng nửa triệu người Do Thái bị giết. Dân số người Do Thái ở Judea giảm hẳn. Người Do Thái bị trục xuất khỏi đất quê hương mình, bị bắt đem bán làm nô lệ khắp đế quốc La Mã. Jerusalem bị đổi tên thành Aetolia Capiotina, một thành phố hoàn toàn ngoại đạo và thuộc điạ trực tiếp của La Mã. Chỉ có người Kitô giáo còn lai vãng, người Do Thái giáo nào héo lánh tới mà bị bắt được, sẽ chịu xử tử.

Một số học giả Do Thái chạy sang Babylon, cùng làm việc với các học giả ở đó trong thời buổi đồng bào họ càng ngày càng sống tản mác và áp lực của Kitô giáo trong vùng đất Đế quốc La Mã mỗi lúc một tăng mạnh. Sang thế kỷ thứ 5 sau CN, bộ sách Talmud Babylonia ra đời với hơn 2 triệu chữ, trở thành sách kinh điển, được mến chuộng và thông dụng hơn bản Talmud Palestine. Nó cũng gồm hai phần: Mishnah và Gemara, bên cạnh đó là phần văn học dân gian midrash.

Bản Talmud Babylonia mang tính cách văn học tổng thể gồm các bình giải về luật lệ, thần học, khoa học, văn học dân gian và các ngành tri thức khác. Chính nó, trong bàn tay các thầy cả và luân lưu trong các cộng đoàn Do Thái, cùng với kinh Torah nơi hội đường, là chủ lực duy trì Do Thái giáo và là nguyên tắc hướng dẫn người Do Thái để sống, phương tiện để họ vững tin, chi phối sự hiệp nhất, tính cố kết và đàn hồi suốt 15 thế kỷ trước mặt.

Hồi giáo và Giáo hoàng La Mã

Truyền bá từ những thập niên đầu của thế kỷ 7, đạo Islam độc thần hàm chứa những yếu tố tương tự với Do Thái giáo như cuộc sáng thế, các tổ phụ từ Abraham (Ibrahim) tới David (Dâwid), Solomon (Suleyman) và các luật về chay tịnh, cầu nguyện, hành hương, v.v.

Ban đầu, Ngôn sứ Muhammad (k.570-632) muốn thu phục người Do Thái, rồi sau khi bị họ từ khước, ông muốn xúc tiến việc tiêu diệt và đuổi họ ra khỏi Ai Cập. Thế nhưng những thủ lãnh Hồi giáo tại các nước Hồi giáo là Sultan (vua Hồi) hay Caliph kế thừa ông xem luật ấy của Muhammad chỉ có tính danh nghĩa; họ đặt người Do Thái làm công dân loại hai, và tận dụng khả năng ngôn ngữ, tài chánh cùng y thuật của những người lưu vong này.

Tại các thành thị Hồi giáo, người Do Thái giáo sống trong những khu phố biệt lập nhưng không bị cô lập, kể cả tại Morocco dù có tường cao vây quanh. Ngay cả khi người Hồi giáo xâm chiếm châu Âu vào thế kỷ 7, cai trị Tây Ban Nha thì tình trạng của người Do Thái ở đó được cải thiện hẳn. Dưới sự cai trị của người Hồi giáo tại Tây Ban Nha, kéo dài cho tới thế kỷ 11, người Do Thái có được một Thời đại Hoàng kim (Golden Age) về văn hóa tại Tây Ban Nha, Morocco và các xứ sở khác ở Trung Đông. Người Do Thái giáo, người Kitô giáo và người Hồi giáo sống bình đẳng với nhau. Các học giả Do Thái và A Rập chia sẻ tình yêu toán học, y dược, văn chương, triết học Aristotle. Thời kỳ này kết tinh thành các nhà đại tư tưởng như Judah Halevi (c.1075-1141), Shlomo ben Yitschak (1040-1105), Mose Maimonides (1138-1204), v.v. Mãi tới thời hiện đại, người Do Thái mới tìm lại được không khí này.

Giáo hoàng La Mã tuy không lên án các chính sách bách hại người Do Thái nhưng ban đầu tương đối có thái độ khoan nhượng với họ, dung chứa họ, không dùng vũ lực với họ. Khi chạy trốn các cuộc thảm sát, họ thường tìm về nước Ý, và dĩ nhiên ở đó họ cũng bị giới cai trị thế tục phân biệt đối xử. Giáo hoàng làm đủ mọi cách bất bạo động để ngăn chận ảnh hưởng của Do Thái giáo lên những vùng dân cư hoặc tư tưởng Kitô giáo, dứt phép thông công những ai có quan hệ với Do Thái giáo, cấm người Do Thái giảng dạy, tịch thu kinh sách và thúc đẩy cải giáo, v.v. Tuy thế, tại Rome, người Do Thái không bị tàn sát hoặc trục xuất. Và hiện thời vẫn còn cộng đồng Do Thái liên tục sinh hoạt suốt 2.000 năm nay.

Tại các nước châu Âu

Khởi thủy, người Do Thái có mặt khắp nơi tại các thành phố lớn của Đế quốc La Mã. Về sau, tại các nước châu Âu, chữ dùng chính xác cho chính sách đương thời của nhà cầm quyền đối với người Do Thái là bách hại, nghĩa là nếu cần thì tàn sát. Trong bối cảnh văn hóa thời đó, người Kitô giáo nói chung xem Do Thái là một dân tộc bị nguyền rủa vì tội giết Đức Giêsu Kitô, thuộc loại người đáng nghi ngờ, và duy trì nhiều thành kiến xấu về họ, thí dụ cho rằng vào dịp lễ Vượt qua, người Do Thái thường làm bánh không men bằng máu của người Kitô giáo và Hồi giáo, v.v. Người Do Thái có mặt tại Tây Ban Nha từ đầu thế kỷ 4 và sau đó là tới các vùng đất sông Rhine.

Trong chỉ dụ của các hoàng đế Kitô giáo đầu tiên, hình ảnh của Do Thái giáo bị thay đổi từ tôn giáo đáng chú ý và hợp pháp rõ ràng, sang tới giáo phái bất chính, và rồi những cuộc tụ tập báng bổ, pháp thuật. Giữ cho người Do Thái ở vị trí thấp kém, còn hơn công dân loại hai, nhà cầm quyền ngăn chận sự xâm nhập của Do Thái giáo bằng cách không cho tín đồ của nó tham gia chính quyền, cô lập các quan hệ xã hội của họ. Vào thế kỷ 5, Hoàng đế La Mã Theodosius ra chiếu chỉ cấm người Do Thái không được làm chủ nô lệ, không được xây hội đường, không được làm viên chức và không được kết hôn với người không phải Do Thái. Giai đoạn ngược đãi trầm trọng trọng này chấm dứt năm 681 khi các đạo binh Hồi giáo có mặt ở châu Âu.

Sau Thời đại Hoàng kim, khi châu Âu thành Kitô giáo và A rập thành Hồi giáo, người Do Thái không chỉ bị xem là "người ngoại cuộc" mà còn là người ngoại cuộc theo một tôn giáo khác. Số phận của họ biến đổi theo thái độ của các vua chúa vốn nắm sinh mạng của thần dân trong tay. Suốt nhiều thế kỷ, người Do Thái không có sức mạnh chính trị, kinh tế tôn giáo nào, và phải sống bằng tháo vát cùng tư duy nhạy bén của mình.

Sang tới thời Trung Cổ, với các cuộc Thập tự viễn chinh của người Kitô giáo nhằm đánh chiếm Jerusalem, trong khi người Do Thái ở quê nhà tiếp tay phòng thủ Palestine thì người Do Thái ở châu Âu lại bị tàn sát để tạo khí thế xuất quân hay báo thù rửa hận. Năm 1290, Anh trục xuất 16 ngàn người Do Thái. Pháp năm 1306, trục xuất mười vạn người. Đặc biệt tới cuối thế kỷ 15, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trục xuất khoảng 20 vạn người. Đối tượng của các vụ trục xuất thường là tín đồ Do Thái giáo không chịu cải sang Kitô giáo. Tại Bồ Đào Nha kể từ năm 1497, trẻ em Do Thái bị buộc phải ở lại khiến nhiều bậc cha mẹ cũng phải cải giáo để được sống với con. Nhiều nơi, trẻ em Do Thái bị bắt cóc để chịu phép thanh tẩy làm người Kitô giáo. Đợt bách hại này nằm trong chiến dịch khủng bố của Toà án Dị giáo vốn bắt đầu tung hoành từ năm 1478, có nơi xem một số người Do Thái là phù thủy, pháp sư. Tại Đức cũng có bách hại nhưng ít hơn.

Giã từ các nước Tây Âu, người Do Thái một số chạy về phương Đông, một số chạy sang Ý và nhất là chạy tới Đông Âu, đặc biệt Ba Lan. Một số chạy sang lập các cộng đồng ở Pháp, vì dưới thời Napoléon, tình hình khá hơn. Thực tế, khi người Do Thái bị Tây Ban Nha và Bồ đào Nha trục xuất trong các năm 1492-1496, trong số các nước châu Âu chỉ có Hà Lan mở cửa đón nhận và cấp cho họ đầy đủ quyền công dân. Quốc gia này có một mạng lưới thương mại lớn rộng với nhiều tàu buôn và thủy thủ đi khắp thế giới. Một số người Do Thái cũng trở thành thương gia, một số làm các ngành nghề mới phát minh như thợ khóa, kính đeo mắt, ống nhòm, v.v.

Bên cạnh đó, còn có các cộng đồng Do Thái mới lập ở Anh, Đức và vùng Moravia, nơi có cộng đồng Do Thái vốn đông đúc sẵn ở Nga, và Ukraine, Lithuania, Hungary, Nam Tư, Tiệp Khắc, Roumania, v.v. Chỉ riêng tại Ba Lan năm 1764, số người Do Thái đã lên tới con số 750.000 người, đủ để khởi động Phong trào Hasid của Đại tôn sư Baal Shem Tov (1698-1760) rồi lan khắp Đông Âu. Tại Nga vào giữa thế kỷ 19, số người Do Thái lên tới 2 triệu.

Suốt nhiều thế kỷ, nhiều xứ sở không cho người Do Thái làm chủ đất đai hoặc có ruộng nương vì họ bị xem là "người ngoại cuộc". Họ cũng bị cấm vào đại học, vì thế phải tìm đủ cách để kiếm sống. Một số trở thành thợ may, thợ đóng giày, thợ kim hoàn, v.v. Triết gia Spinoza sống bằng nghề mài tròng kính. Người không làm thợ thì đi buôn và trở thành thương gia. Các ngành nghề nói chung đều lưu động. Một số làm chủ tiệm trong khi những người khác mang hàng hóa và tiền bạc đi từ thành phố này tới thành phố khác, chỉ biết trông cậy vào trí khôn để tự bảo vệ.

Do đó, không lạ khi thấy người Do Thái có mặt rất sớm trong các phong trào di dân đi châu Mỹ, từ năm 1654 để tránh Tòa án Dị giáo ở Bồ Đào Nha. Tất cả di dân Do Thái chia thành năm đợt, đầu tiên là tới New York, thành phố bấy giờ là thuộc địa của Hà Lan. Năm 1881, vì Nga ban hành luật chống Do Thái nền từ nằm đó tới năm 1928 người Do Thái ở Nga ồ ạt di dân sang Mỹ là 1.749.000 người. Hiện nay, dân số Do Thái tại Hoa Kỳ khoảng 6 triệu người, và thành phố New York có đông dân Do Thái nhất.

Khu biệt cư ghetto

Phong trào Phục hưng tại châu Âu khiến người ta nghi ngờ nó chịu ảnh hưởng của Do Thái giáo. Giáo hoàng Paul IV (1476-1555-1559) ra chỉ dụ Cum nimis absuundum năm 1555, thành lập Khu biệt cư ghetto ở La Mã, người Do Thái muốn đi ra ngoài biệt cư phải đeo thẻ màu vàng. Kiểu mẫu này lấy từ ghetto Venice và về sau lan khắp châu Âu và Trung Đông.

Ghetto nói chung là một khu vực dành cho người Do Thái sống biệt lập với nhau, có vòng rào bao quanh. Ban đêm, khóa mọi cổng, ban ngày, người Do Thái ra ngoài phải đeo thẻ màu vàng, nhiều nơi, thẻ có hình Ngôi sao David. Trong ghetto, dân chúng cử lên hội đồng quản trị mà các quyết định của hội đồng đều qua tay xét duyệt của thầy cả.

Dựa vào luật lệ Do Thái giáo, có tòa án gồm thẩm phán là thầy cả và các kỳ mục. Ghetto tự thu lấy thuế, lo cho trường học và trả lương cho thầy cả, các viên chức y tế, giáo dục, các quĩ xã hội, v.v. Và nếu cần, các chức việc hội đường như ông từ, người xướng kinh, người giết mỗ súc vật đúng luật kosher. Ghetto còn cử người có quan hệ với chính quyền địa phương. Dân sống trong ghetto thường nghèo túng vì bị hạn chế việc đi lại, mua bán, sinh kế, v.v.

Ghetto Do Thái xuất hiện vì người Do Thái bị xem là người lạ trong các xứ sở Kitô giáo hay Hồi giáo. Các cổng của ghetto khép chặt vào những đợt có đụng độ sắc tộc hay khủng bố người Do Thái, xảy ra bắt cóc trẻ con Do Thái hay vào các ngày lễ lớn của Do Thái như lễ Vượt qua, Ngũ tuần, v.v.

Hai con dê và một cuốn sách

Thuở còn Đền thờ Jerusalem, vào ngày thứ mười của tháng thứ nhất đầu năm lịch Do Thái, trong nghi thức ngày Đền tội (Yom Kippur) khi Thượng tế bắt thăm chọn lấy hai con dê, một con tế thần và một con gánh tội, có lẽ ông không ngờ tới một ngày nào đó, dân Do Thái hậu duệ của ông sẽ bị trong một lúc mang lấy thân phận của cả hai con dê ấy.

Tiền tài, quyền lực và danh vọng là những giá trị trần thế. Nếu sử dụng khôn ngoan, chúng sẽ là phương tiện hữu ích để phục vụ con người. Nếu bị xem là cứu cánh, chúng trở thành phương tiện tuyệt vời để phục vụ tà thần, mà tiêu biểu là con bò vàng nghi ngút khói hương dưới chân núi Sinai hơn 3.300 năm trước, một hình ảnh ô uế của ngẫu tượng được người Israel cùng tư tế Aaron, em ruột của Moses bái lạy, trong tâm trạng dao động. Vào bất cứ thời nào, cũng có những kẻ mưu đồ vị kỷ nhân danh chính trị hay tôn giáo để phục vụ sự dữ của mình nằm trong cái ác muôn đời. Tiêu biểu hơn cả là những cá nhân hay tập đoàn độc tài chuyên chế thường củng cố quyền lực của mình bằng hai chân, một chân dân túy chủ nghĩa và một chân dân tộc chủ nghĩa, hay độc tôn tôn giáo. Cả hai thứ chủ nghĩa đó tạo ra những cơn si dại đồng bóng của quần chúng, đưa tới hoang tưởng và bài xích mang tính hủy diệt dân tộc khác hay tôn giáo khác.

Người Do Thái là một sắc dân tha hương, với lối sinh hoạt tôn giáo nghiêm ngặt và lối sống cá biệt cộng thêm với sức sống những cá nhân có dân tộc nhưng mất chính quyền và lãnh thổ. Vì thế, khi là thiểu số trong cộng đồng của một dân tộc khác, họ dễ bị các thủ lãnh giả mạo của tôn giáo hay chính trị dùng làm con dê cúng tế thần linh ngẫu tượng của cơ chế. Và đồng thời dùng họ làm con dê gánh tội để đổ lên mình nó những bất lực và xấu xa của cấp lãnh đạo nhằm xoa dịu quần chúng.

Những cuộc bách hại người Do Thái không chỉ xuất hiện trong bối cảnh cổ đại và trung cổ mà ngay trong thời hiện đại. Năm 1903, tại Nga xuất hiện cuốn The Protocols of the (Learned) Elders of Zion, nói về những âm mưu nham hiểm của các Trưởng lão Do Thái nhằm khống chế thế giới. Tuy cuốn sách được phóng tác từ chất liệu ăn cắp của các tác phẩm trào phúng chính trị trước đó, nhưng chẳng may có nhiều người tin rằng các âm mưu ghê tởm ấy có thật.

Sau đó cuốn sách được dịch sang tiếng Anh, và đặc biệt tiếng Đức. Rồi nó rơi vào tay Đảng Quốc xã Đức trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng thập niên 30 của thế kỷ 20. Lập tức, qua bàn tay xảo quyệt của những kẻ tà đạo, cuốn sách trở thành chứng cớ để phát động một phong trào bài Do Thái, đặc biệt nhắm vào những đối tượng đang hoạt động trong lãnh vực tài chánh và thương mại, và giới trưởng lão học giả ở châu Âu.

Dĩ nhiên, những khổ nạn tàn mạt của người Do Thái vào nửa đầu thế kỷ 20 không chỉ do bởi một cuốn sách, nhưng Protocols of (Learned) Elders of Zion cho thấy ảnh hưởng sách báo độc hại của những cây bút bất lương, sự dễ tin của quần chúng và lòng dạ hiểm ác của những thủ lãnh giả mạo, nghĩa là cho thấy sức mạnh của cái ác, của quỉ dữ cùng đường biến thiên của nó. Và hiện nay, trên khắp thế giới, vẫn có vô số sách báo, nhiều trang web thuộc loại hư ngụy và độc dữ như thế, chống lại những nỗ lực của con người trong công cuộc hiệp nhất loài người, vượt qua những dị biệt tôn giáo, chủng tộc và dân tộc.

Holocaust 1939-1945

Holocaust phát xuất từ một từ ngữ Hebrew là Shoah, nghĩa là thảm họa mang tính chất hủy diệt; nói chung, và nó được dùng riêng cho cuộc Đại tàn sát người Do Thái vào nửa đầu thập niên 40 của thế kỷ vừa qua tại châu Âu. Cho đến nay, rõ ràng chánh phạm là Adolf Hitler với guồng máy Nazi Đức Quốc xã, những kẻ đã xem Holocaust là "Giải pháp sau cùng cho người Do Thái." Tuy thế, nhiều học giả đề nghị mở rông đối tượng của Holocaust vì trong tổng số 11 triệu nạn nhân của nó, người Do Thái chiếm khoảng 5.9T, số còn lại là các tù binh Liên Sô (2-3T), các sắc tộc thiểu số Ba Lan 1.8T, và số còn lại là người các nước khác, kể cả người Đức, thuộc diện tàn tật, đồng tính, tín đồ Nhân chứng Jehovah và các thành phần đối lập chính trị,

Nạn nhân chủ yếu là người Do Thái với một âm mưu có hệ thống và thực hiện có kế hoạch của Đức Quốc xã nhằm diệt chủng Do Thái, sau khi đã biến họ vừa làm nguyên cớ biện minh vừa làm con dê chịu tôi cho những sai lầm trong các sách lược xã hội, kinh tế và nhất là quân sự của Adolf Hitler và tập đoàn. Nó đi đúng với sách vở chính trị học, trong khi các thủ lãnh dân chủ cần nêu cao lý tưởng để phục vụ thì ngược lại, các nhà cai trị độc tài cần vẽ vời kẻ thù để trấn áp. Từ giữa thập niên 1930, âm mưu diệt chủng Do Thái ấy được tiến hành theo hai giai đoạn: lập cơ sở pháp chế bằng những đạo luật tách người Do Thái ra khỏi xã hội dân sự, và tiếp đó, đưa họ vào cái chết bằng nhiều hình thức, trong đó kinh khiếp nhất là các trại tập trung có phòng hơi ngạt và lò thiêu.

Địa bàn tàn phá của Holocaust không chỉ ở nước Đức mà còn tại các xứ sở bị quân Đức chiếm đóng như Ba Lan, Hà Lan, Luxembourg, Bỉ, Pháp, Nam Tư, Hungary, Romani, Bulgary, Phần Lan. Hãy lấy Ba Lan làm hình ảnh tiêu biểu. Trước hết, Đức Quốc xã lập Warsaw Ghetto, cô lập khoảng 380.000 người Do Thái, sau đó di chuyển họ đi nơi khác. Tại những xứ sở khác, ban đầu người Do Thái ra đường phải mang huy hiệu có hình Ngôi sao David, kế đó, bị phân tán gia đình theo nam nữ và bị vận chuyển bằng phương tiện cơ giới, thường là các toa tàu chở súc vật, xuyên quốc gia để tới các trại tập trung. Và vào những tháng đầu năm 1945, khi các đạo binh Nga băng qua Ba Lan, càng ngày càng tiến gần tới mục tiêu Bá Linh, thì tốc độ tàn sát tù nhân càng lúc càng nhanh khủng khiếp.

Ngày nay, người ta dễ tìm thấy tài liệu về các khổ nạn tại hơn 15 trại tập trung của Đức Quốc xã cùng những hồi ký về cuộc sống lẫn trốn bên ngoài nó như của Anne Frank, chờ chết bên trong nó như của Elie Wiesel và vô số tác giả khác. Chỉ xin nêu ra ở đây một ít con số. Tổng số người chết: 11T. Số người Do Thái 5.9 T (Ghi nhận cụ thể và chưa đầy đủ: chết trong các ghetto và nhà tù 800.000 người; bị các đội hành quyết bắn ngoài trời 1.400.000 người; trong các trại tập trung 2.900.000). Tổng số người chết trong ba trại có số lượng cao nhất là Auschwitz 1.400.000 người; Belzec 600.000 người và Chemno 600.000 người.

Liệu loại tội ác diệt chủng như thế có thể tái diễn dưới hình thức khác không? Không biết. Vì bao lâu con người chưa tích cực pháp chế hóa các giá trị đạo đức, chưa xiển dương cao độ cái thiện của mình để chế ngự cái ác trong mỗi người hoặc chủ động được đường tiến hóa của dân tộc, thì vẫn chưa biết điều gì sẽ xảy tới cho mình và cho người khác, cho dân tộc và cho loài người.

Con đường phục quốc của người Do Thái

Những khổ nạn của người Do Thái vừa được đề cập sơ lược ở trên không còn là vấn đề tranh luận. Các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả và các sử gia cùng hồi ký của các nhà văn và tiếng nói của những nạn nhân sống sót đã làm chúng ngày càng hiện nguyên hình với đầy đủ vẻ kinh tởm và tàn mạt ngoài sức tưởng tượng. Ngày nay, cái tên Đảng Tân Quốc xã (Neo-Nazi) và những lời phủ nhận Holocaust trở thành ngọn roi quất vào lương tâm loài người và là sự sỉ nhục con người ở mức cao nhất.

Thảm trạng của Holocaust cũng âm vang trong tiếng nói đầy ân hận sâu xa của Giáo hội Công giáo La Mã. Ngày 16 tháng Ba năm 1998, Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhân danh toàn thể cộng đồng Công giáo La Mã đưa ra lời xin lỗi vì trong Thế chiến Hai, Giáo hội đã không phát biểu công khai chống lại cuộc Đại tàn sát Holocaust của Đức Quốc xã; trong thư xin lỗi ấy, Giáo hoàng còn nói Holocaust vẫn mãi mãi là vết nhơ nhuốc không tẩy xóa được trong thế kỷ 20. Hai năm sau, ngày 12 tháng Ba năm 2000, cũng chính Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời xin lỗi rộng rãi về những tội lỗi mà Giáo hội Công giáo đã phạm suốt các thời đại trong đó có những hành động chống lại người Do Thái.

Trước đó 140 năm, đã có những tiếng nói vận động phục quốc và phác họa hình ảnh một nước Israel. Năm 1862. Moses Hess (1812-1875), một người cộng sự với Karl Marx (mà thân phụ, Henrich Marx, là một luật sư Do Thái cải giáo sang Tin lành), viết cuốn Rome and Jesusalem, The Last National Question (La Mã và Jerusalem, vấn đề cuối cùng mang tính dân tộc) nhằm kêu gọi người Do Thái thành lập một nước xã hội chủ nghĩa lại Palestine như một phương cách giải quyết vấn đề Do Thái. Năm 1882, sau những đợt đụng độ đẫm máu giữa thủy thủ Hi Lạp và thanh thiếu niên Do Thái tại hải cảng ở Odessa (Ukraine), Bác sĩ Judah Leib Pinsker (1821-1891) đã viết trong một tờ kêu gọi ủng hộ công cuộc phục quốc, trong đó ông phân tích khuynh hướng của người châu Âu xem người Do Thái là người lạ, và ông cay đắng nhận xét rằng:

"Vì người Do Thái không có nơi đâu là nhà, không có nơi đâu là quê mẹ, nên ở khắp nơi hắn vẫn là người lạ. Tới độ bản thân hắn và tổ tiên hắn dù được sinh ra trong một xứ sở cũng chẳng mảy may biến đổi được thực tế đó... ...đối với sự sống, người Do Thái là xác chết, đối với nơi chôn nhau cắt rốn hắn là người nước ngoài, đối với quê nhà cố định hắn là kẻ rày đây mai đó, đối với quyền sở hữu hắn là gã hành khất, đối với người nghèo hắn là kẻ bóc lột và tên triệu phú, đối với người yêu nước hắn là kẻ không có xứ sở, và đối với tất cả, hắn là kẻ kình địch bị căm ghét."

Từ năm 1882, người Do Thái đã bắt đầu háo hức di cư về Palestine, trong đó có 45.000 người từ Nga. Họ thành lập một số địa điểm định cư canh tác nông nghiệp với sự giúp đỡ tài chính của những người hảo tâm ở Tây Âu. Sang tới thập niên 1890, Theodor Herzl (1860-1904), một ký giả Áo-Hung vận động cho mạnh mẽ cho việc phục quốc và là cha đẻ của phong trào chính trị phục quốc Do Thái hiện đại (Zionism). Đệ nhất Nghị hội Phục quốc (First Zionist Congress) họp tại Basel, Thụy Sĩ năm 1897 thành lập Tổ chức Phục quốc Thế giới (World Zionist Organization).

Thế nhưng thời đó, không phải mọi người Do Thái đều đồng ý với giải pháp Phục quốc Do Thái. Một số người Do Thái Chính thống đánh giá nỗ lực của Phong trào Zion là hấp tấp nông nổi, như một hành động vi phạm lề luật của Thượng đế. Nhiều người Do Thái Cải cách chống đối Phong trào Zion, xem nó là hành động đi ngược lại trào lưu lịch sử trong một thế giới đang hướng tới hoà bình và tình huynh đệ. Một số người cho rằng phong trào mang tính dân tộc chủ nghĩa ấy đối nghịch với khái niệm cho rằng Do Thái giáo chỉ là một tôn giáo.

Thế rồi vụ Holocaust xảy ra, giải quyết mọi tranh luận và hoá giải các quan điểm đối nghịch. Hai ngàn năm trôi dạt với cao điểm là cuộc Đại tàn sát Holocaust, dân tộc tự hào mình được Thượng đế chọn và có sự hiệp thông riêng tư với Thượng đế đó, cuối cùng thấy mình là đoàn người tả tơi sống sót trước sân lò sát sinh của đủ thứ đồ tể. Chọn lựa tốt nhất là xây dựng cho mình một quê hương, để vừa có đất sống, vừa có chỗ hướng về và biến thành hiện thực câu chúc nhau hằng năm trong bữa ăn seder mừng lễ Vượt qua: Sang năm ta về Jerusalem!

Sau bao nhiêu gian nan, nước Israel được thành lập vào ngày 14 tháng Năm 1948, trên vùng đất Palestine với diện tích 20 ngàn cây số vuông (bằng 1/16 diện tích nước Việt Nam). Dân số tính tới tháng Năm năm 2010 là 7.602.400 người, trong đó người Do Thái chiếm 6.051.000 người. Số còn lại gồm người Hồi giáo, Kitô giáo, Samaria và Duze. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hebrew, và lịch sử kinh thánh được dạy cho trẻ em như là câu chuyện trường thiên của dân tộc.

Ai là người Do Thái?

Đó là một câu hỏi xót xa và rất khó trả lời cho một dân tộc sống chung với hàng chục dân tộc khác suốt hai ngàn năm nay. Với hơn 10 triệu người Do Thái đang sống bên ngoài lãnh thổ Israel, thì cuộc sống chung đó có vẻ kéo dài tới vô tận vì con người thời nay ngày càng mang tính hoàn cầu. Ngày nay câu hỏi thực tế nhất là người Do Thái ấy xuất thân từ cộng đồng nước nào. Người Do Thái hôm nay không còn thuần chủng. Hậu quả chung đụng qua cả trăm thế hệ làm người Do Thái nói chung tương tự với kiểu mẫu thể lý của dân chúng bản địa.

Người Khương ở Hoa Bắc và người gốc Do Thái ở Hồ Nam trông giống với Hán tộc. Người Do Thái ở Ethiopia trông giống với người Ethiopia không phải Do Thái, có màu da đen và một số đặc điểm của người Caucase cùng người vùng Thượng Sahara. Người Do Thái giáo Yemen và người Hồi giáo Yemen chẳng khác gì nhau, đều có nước da sậm màu ô-liu, vóc người nhỏ, đầu hơi dài. Chủng tộc duy nhất mà người Do Thái ít bị đồng hóa là Bắc Âu bản địa. Thí dụ so với ngươi Do Thái Đức, thì người Đức không Do Thái nước da tương đối sáng hơn, mắt xanh, đầu dài và cao hơn. Đó chỉ mới vài thí dụ trong số hàng chục loại người Do Thái sống với các dân tộc bản địa khác.

Tới đầu thế kỷ 20, người Do Thái sống ở Đông và Tây Âu cùng Nam và Bắc Mỹ được gọi là người Do Thái Ashkenazi. Trước đó, từ sau năm 1492, người Do Thái rời Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tới sống trong thế giới A Rập - trải rộng từ Bắùc Phi ra khắp Trung Đông tới Ấn Độ - được gọi là người Do Thái Sephardic. Tuy nhiên, tại nhiều nước ở Trung Đông, gồm có Yemen, Iraq, Iran và Ethiopia, người Do Thái được gọi với tên khác. Tại Iraq và Iran, họ được gọi là người Do Thái Babylon. Người Do Thái ở phương Đông được gọi là Edor HaMizrakh.

Ngày nay, danh xưng Sepharnic trở thành tiếng chỉ chung những người Do Thái không phải là Ashkenazi. Vì tình trạng đa nguyên của người Do Thái nên họ có các phong tục, truyền thống, tên họ, y phục, thức ăn và văn hóa dân gian (kể cả truyện dân gian) khác nhau trong nhiều khía cạnh. May mắn là những dị biệt văn hóa ấy được vượt qua nhờ các giá trị và các chủ đề mang tính Do Thái nhất định.

Khi nước Israel thành lập năm 1948, ban đầu có một số người tinh nguyện trở về từ Mỹ và Canada. Rồi tới lượt các nạn nhân Holocaust sống sót ở châu Âu. Kế đó, lũ lượt người Do Thái sống tại các nước A Rập; nhiều người rời nơi mình từng sinh sống suốt 2.000 năm nay. Ngày nay, cả hai nền văn hoá của người Do Thái Ashkenazi và người Do Thái Sephanic cùng nhau hình thành bản sắc của nước Israel.

Và như thế, để giải quyết câu hỏi "Ai là người Do Thái", người ta cho rằng người Do Thái bao gồm ba nhóm. Thứ nhất những người sinh ra trong gia đình Do Thái dù họ theo hoặc không theo Do Thái giáo. Thứ hai, những kẻ có bối cảnh tổ tiên hoặc có dòng dõi Do Thái dù không nghiêm nhặt về mẫu hệ như được qui định theo Lề luật. Thứ ba, những kẻ có bối cảnh tổ tiên hay dòng họ tuy không là Do Thái nhưng đã cải sang Do Thái giáo và nay họ đang là tín đồ của đạo đó, thí dụ trường hợp trước đây của Đại đế Herod.

Sống với thế giới ngày nay

Cuộc tiến hóa đang chuyển biến chóng mặt, từ khoa học tới văn hóa. Để chứng minh mình là người Do Thái, một cầu thủ da đen trong đội tuyển Brasil không cầøn ôm theo chồng gia phả, mà chỉ rút từ ngực áo ra bản xét nghiệm gen di truyền. Cũng thế, hàm râu rậm rạp không còn được xem như có sức sống nội tâm phong phú và ân sủng dồi dào của Thượng đế. Con người thời nay hiện đại hóa và toàn cầu hóa, và đối với họ, có lẽ như một truyện dân gian trong sách này: Lề luật không ở trên trời. Ấy là chưa kể những kẻ nhiệt thành của phong trào hậu hiện đại, chuyên tìm cách bóc vỏ hoặc gây nhiễu các đại tự sự, tiểu tự sự của các nền văn hoá và tín ngưỡng, chính trị, v.v.

Cuộc sống hiệp nhất và hợp thành một thể thống nhất của Do Thái giáo dưới quyền dẫn đạo của thầy cả hầu như đã thất lạc đâu đó trong thời hiện đại. Tự do của con người hôm nay mang lại sự chấp nhận thực trạng dị biệt và đa nguyên chủ nghĩa. Không còn tình trạng hết thảy tín hữu Do Thái giáo cất lên tiếng nói đồng nhất về thẩm quyền ràng buộc của kinh Torah. Tuy tín hữu theo khuynh hướng chính thống vẫn quả quyết rằng ý chí của Thượng đế hiện thể trong kinh Torah và sách Talmud, nhưng giờ đây họ thấy rằng sự hiện thể đó phải được thông giải một cách có thẩm quyền bởi các nhóm thầy cả cá biệt theo từng thế hệ.

Thế nhưng một số người Do Thái khác vẫn khẳng định rằng Kinh thánh từ những khởi hứng thiêng liêng của nó, vẫn là lời giải đáp đầy nhân tính cho sự có mặt của một Thượng đế đang chỉ huy mọi biến cố. Cũng có nhiều người Do Thái không xem mình là người tôn giáo, không thuộc về một hội đường nào tuy vẫn tự hào về di sản của dân tộc. Họ ca ngợi các chiều kích luân lý và văn hóa của Do Thái giáo và bày tỏ niềm hi vọng rằng con cháu họ vẫn tự hào về dân tộc Do Thái cùng các giá trị và lịch sử của nó.

Thầy cả thời đại đại mới

Còn hơn tình trạng phân rẽ giới Pharisee hai ngàn năm trước thành hai trường phái của hai Đại thầy cả Shammai và Hillel, Do Thái giáo ngày nay mang những khuynh hướng khác nhau trong thông giải kinh sách và thực hành thường nhật. Ta có Do Thái giáo ở Bắc Mỹ thực tiễn và năng động, bên cạnh Do Thái giáo Bắc Âu uyển chuyển và phóng khoáng, nằm kề với Do Thái giáo Đông Âu và Nga vẫn đậm màu bảo thủ, ảnh hưởng lên các cộng đồng di dân của họ ở Mỹ và Canada.

Tình trạng dị biệt đó sẽ còn kéo dài vì như đã thấy, tín đồ Do Thái giáo không có cơ chế trung ương tập quyền như Công giáo La Mã hay Chính thống giáo. Ta có Do Thái giáo phái Hasid với những sinh hoạt bình dân, rộn ràng nhưng vẫn đượm không khí thần bí. Do Thái giáo Cải cách muốn tái phát biểu đức tin vào thuở bình minh của thời đại ngôn sứ với lời hứa "sự sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc" của con người thời đại. Phong trào Do Thái giáo Bảo thủ khẳng định rằng biến đổi của sự tuân giữ lễ nghi Do Thái giáo phải tăng trưởng trong quan hệ hữu cơ với trải nghiệm cuộc sống của tín hữu. Các thầy cả của phái này vẫn duy trì chiếc khăn phủ đầu khi cầu nguyện và khẳng định tầm quan trọng của luật chay tịnh. Khuynh hướng Do Thái giáo Chính thống vẫn nhất quyết giữ vững ngày Sabbath và việc phân chia riêng rẽ chỗ ngồi của nam và nữ trong hội đường.

Sự khác biệt của cả ba khuynh hướng đó tiếp tục đưa tới các quan điểm khác biệt về thẩm quyền của thầy cả. Người Chính thống và người Bảo thủ quả quyết rằng chỉ có hàng ngũ thầy cả được cơ chế hóa mới có thẩm quyền thông giải kinh Torah. Ngược là, người Cải cách cho rằng thầy cả đóng vai trò người hướng dẫn hơn là thẩm quyền tối hậu.

Thêm nữa, sự lớn mạnh của phong trào nữ quyền trên khắp thế giới cũng tác động sâu xa lên Do Thái giáo. Rất đông nữ tín đồ nhấn mạnh rằng văn bản Kinh thánh cũng như lề luật và các kinh nguyện phụng vụ đã quá chú trọng tới nam giới, để cho nữ giới hầu như đứng bên lề hoặc chỉ là đối tượng phụ. Tình trạng bất bình đẳng đó phải được chấm dứt trong một thế giới mà nữ giớiõ không còn bị thẩm định giá trị dựa trên khả năng sinh sản hay đảm đang nội trợ như thuở xưa, và nam giới không là kẻ duy nhất bôn ba ngoài xã hội.

Nhiều phụ nữ Do Thái đòi phải thông giải lại giao ước của Thượng đế dành cho loài người, cả nam lẫn nữ, bổ túc cho những bình giải trong Talmud và văn học dân gian midrash, cũng như tìm cách ghi lại các thông điệp trong Kinh thánh một cách phi giới tính, thí dụ tại sao Thượng đế chỉ luôn luôn mang hình ảnh đàn ông, và tiêu biểu bằng đại danh từ giống đực. Trong thực hành cũng thế, có khuynh hướng làm lễ điểm đạo, hay lễ trưởng thành cho thiếu niên 13 tuổi, cả nam lẫn nữ; nhân số mười người hợp qui cách cho một buổi cầu nguyện phải tính luôn cả nam lẫn nữ, các qui định về hôn ước, li thân li dị, quyền gia trưởng, v.v. phải đặt trên sự bình đẳng giới tính.

Thậm chí một số định chế Do Thái còn tiến hành việc phong thầy cả cho người nữ. Như nữ thầy cả Sally Priesand (1946 - ), thuộc Đại học Hiệp nhất Do Thái Cải cách (Reform Hebrew Union College), kẻ đầu tiên được tấn phong vào năm 1972 ở Hoa Kỳ.

Thế nhưng nữ thầy cả đầu tiên là Regina Jonas được tấn phong bí mật vào năm 1935 tại Bá Linh; bà chào đời năm 1902 và tới năm 1944 thì bị giết trong trại tập trung Auschwitz. Trước đó, tại Hoa Kỳ có Paula Ackerman (1893-1989) phục vụ cộng đoàn với năng lực của một thầy cả nhưng bà không bao giờ được phong chức.

Năm 1985, Chủng viện Thần học Do Thái Bảo thủ tại Hoa Kỳ (Jewish Theological Seminary of America) cũng tấn phong Amy Eilberg (1954- ) làm thầy cả. Tính tới năm 2004, Chủng viện này đã tấn phong hơn 150 nữ thầy cả, còn Học viện Thầy cả Ziegler (Ziegler School of Rabbinic Studies), cũng thuộc khuynh hướng bảo thủ, đã tấn phong khoảng 30 người.

Từ lời ca của David trong đoạn Thánh vinh mở đầu bài này đến nay đã ba ngàn năm. Qua bao nhiêu gian khổ và chuyển biến, người Do Thái vẫn mang trong mình hình ảnh Thượng đế giữa cuộc lữ thứ trần thế. Đấng giao ước ấy, dù được thông giải ra sao theo ngôn ngữ thời nay, vẫn là niềm hy vọng nỗi cậy trông và bến đỗ cho thuyền đời lạc loài. Và khi con người bí lối hay cô đơn nhất, vẫn có thể cảm thấy nguôi ngoai nếu có một hình bóng bên cạnh hay trên đám mây trước mặt. Cũng thế, ngày nay, tiếng hát có hình bóng ấy hẳn không còn ở nơi đồng cỏ xanh tươi với đàn súc vật, hay chỉ ở hội đường mà còn trên sân khấu với hàng chục ngàn khán giả đang ngây ngất vươn tay lượn mình và nhiều khi hòa điệu hát theo.

Ofra Haza, nữ ca sĩ Do Thái, là người thấm đẫm nguồn cảm hứng thiêng liêng ấy. Cô chào đời năm 1957 tại khu phố Hativak ở Tel Aviv, trong một gia đình nghèo gồm chín anh em. Nhạc và lời do chính cô viết và hát, khởi hứng từ tình yêu văn hóa Israel và niềm tin vào Thượng đế, lan khắp Trung Đông, các xứ A Rập cùng châu Âu và Bắc Mỹ. Tiếng hát của Haza cất cao theo thể điệu nhạc pop hiện đại mang lại cho cô nhiều dĩa vàng và dĩa bạch kim cùng nhiều giải thưởng trên khắp thế giới. Năm cô qua đời (2000) vừa khép lại một ngàn năm cũ, nhưng tiếng hát của cô vẫn vang lên dạt dào trong thiên niên kỷ mới. Và tôi xin mượn một bài hát của cô như lời nguyện cầu của kẻ cô đơn lạc loài nơi trần thế, để làm lời kết cho bài này:

Trái tim tôi

Những chiếc cổng trời cao mở ra cho nước mắt tôi

Những chiếc cổng trời cao mở ra cho nước mắt tôi

Thượng đế ơi, xin xót thương tôi.

Thượng đế ơi, xin xót thương tôi

Và đây cơn nhức buốt trong trái tim tôi

Và đây cơn nhức buốt trong trái tim tôi

Ôi tình yêu, làm sao tôi có được?

Ôi tình yêu, làm sao tôi có được?



Người còn biết chăng tôi hiện hữu nơi này?

Làm sao tôi tìm thấy lối đi xuyên qua

tình yêu của người?

Trái tim tôi chỉ khát khao tự do

Không ai có thể khiến tôi yêu cái khác

Chỉ khi tình yêu ấy hiểu nỗi khổ đau này

và tới bên tôi

Ai nguyên nhân của đau đớn không thể tin này

Ai kẻ chẳng biết chút nào sự hiện hữu của tôi?

Tác giả Nguyễn Ước


No comments:

Post a Comment